Tăng Chi Bộ 10.118
Aṅguttara Nikāya 10.118
12. Phẩm Đi Xuống
12. Paccorohaṇivagga
Bờ Bên Này Và Bờ Bên Kia
Orimatīrasutta
“Và này các Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng bờ bên này và bờ bên kia. Hãy nghe và khéo tác ý, Ta sẽ nói”.
“Orimañca, bhikkhave, tīraṃ desessāmi pārimañca tīraṃ. Taṃ suṇātha, sādhukaṃ manasi karotha, bhāsissāmī”ti.
“Thưa vâng, bạch Thế Tôn,” các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:
“Evaṃ, bhante”ti kho te bhikkhū bhagavato paccassosuṃ. Bhagavā etadavoca:
“2. Này các Tỷ-kheo, thế nào là bờ bên này, và thế nào là bờ bên kia?
“Katamañca, bhikkhave, orimaṃ tīraṃ, katamañca pārimaṃ tīraṃ?
Tà kiến, này các Tỷ-kheo, là bờ bên này, chánh kiến là bờ bên kia. …
Micchādiṭṭhi orimaṃ tīraṃ, sammādiṭṭhi pārimaṃ tīraṃ ...pe...
Tà giải thoát là bờ bên này, chánh giải thoát là bờ bên kia.
micchāvimutti orimaṃ tīraṃ, sammāvimutti pārimaṃ tīraṃ.
Này các Tỷ-kheo, đây là bờ bên này, đây là bờ bên kia.
Idaṃ kho, bhikkhave, orimaṃ tīraṃ, idaṃ pārimaṃ tīranti.
Ít người giữa nhân loại,
Ðến được bờ bên kia,
Còn số người còn lại,
Xuôi ngược chạy bờ này.
Appakā te manussesu,
ye janā pāragāmino;
Athāyaṃ itarā pajā,
tīramevānudhāvati.
Những ai hành trì pháp,
Theo Chánh pháp khéo dạy,
Sẽ đến bờ bên kia,
Vượt ma giới khó thoát.
Ye ca kho sammadakkhāte,
dhamme dhammānuvattino;
Te janā pāramessanti,
maccudheyyaṃ suduttaraṃ.
Kẻ trí bỏ pháp đen,
Tu tập theo pháp trắng,
Bỏ nhà, sống không nhà,
Sống viễn ly khổ lạc.
Kaṇhaṃ dhammaṃ vippahāya,
sukkaṃ bhāvetha paṇḍito;
Okā anokamāgamma,
viveke yattha dūramaṃ.
Hãy cầu vui Niết-bàn,
Bỏ dục, không chướng ngại,
Kẻ trí tự rửa sạch,
Cấu uế từ nội tâm.
Tatrābhiratimiccheyya,
hitvā kāme akiñcano;
Pariyodapeyya attānaṃ,
cittaklesehi paṇḍito.
Những ai với chánh tâm,
Khéo tu tập giác chi,
Từ bỏ mọi ái nhiễm,
Hoan hỷ không chấp thủ,
Không lậu hoặc, sáng chói,
Sống tịch tịnh ở đời”.
Yesaṃ sambodhiyaṅgesu,
sammā cittaṃ subhāvitaṃ;
Ādānapaṭinissagge,
anupādāya ye ratā;
Khīṇāsavā jutimanto,
te loke parinibbutā”ti.
Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt