Tăng Chi Bộ 10.172
Aṅguttara Nikāya 10.172
17. Phẩm Jāṇussoṇī
17. Jāṇussoṇivagga
Pháp và Phi Pháp (2)
Dutiyaadhammasutta
“1. Phi pháp và phi mục đích, này các Tỷ-kheo, cần phải hiểu biết. Pháp và mục đích cần phải hiểu biết.
“Adhammo ca, bhikkhave, veditabbo dhammo ca; anattho ca veditabbo attho ca.
Sau khi biết phi pháp và phi mục đích, sau khi biết pháp và mục đích, pháp như thế nào, mục đích như thế nào, như thế ấy, cần phải thực hành.”
Adhammañca viditvā dhammañca, anatthañca viditvā atthañca yathā dhammo yathā attho tathā paṭipajjitabban”ti.
Thế Tôn thuyết như vậy. Thuyết như vậy xong, bậc Thiện Thệ từ chỗ ngồi đứng dậy và bước vào tinh xá.
Idamavoca bhagavā. Idaṃ vatvāna sugato uṭṭhāyāsanā vihāraṃ pāvisi.
2. Rồi các Tỷ-kheo ấy, sau khi Thế Tôn đi không bao lâu, suy nghĩ như sau:
Atha kho tesaṃ bhikkhūnaṃ acirapakkantassa bhagavato etadahosi:
“Này chư Hiền, Thế Tôn đã nói lên một cách vắn tắt lời tuyên bố này, không phân tích ý nghĩa một cách rộng rãi, từ chỗ ngồi đứng dậy, đã đi vào tinh xá:
“idaṃ kho no, āvuso, bhagavā saṅkhittena uddesaṃ uddisitvā vitthārena atthaṃ avibhajitvā uṭṭhāyāsanā vihāraṃ paviṭṭho:
‘Phi pháp và pháp, này các Tỷ-kheo, cần phải hiểu biết, phi mục đích và mục đích cần phải hiểu biết.
‘adhammo ca, bhikkhave, veditabbo dhammo ca; anattho ca veditabbo attho ca.
Sau khi biết phi pháp và pháp, sau khi biết phi mục đích và mục đích, pháp như thế nào, mục đích như thế nào, như thế ấy cần phải thực hành.’
Adhammañca viditvā dhammañca, anatthañca viditvā atthañca yathā dhammo yathā attho tathā paṭipajjitabban’ti.
Với lời tuyên bố này được Thế Tôn nói lên một cách vắn tắt, không phân tích ý nghĩa một cách rộng rãi, ai là người có thể phân tích một cách rộng rãi?”
Ko nu kho imassa bhagavatā saṅkhittena uddesassa uddiṭṭhassa vitthārena atthaṃ avibhattassa vitthārena atthaṃ vibhajeyyā”ti?
Rồi các Tỷ-kheo ấy suy nghĩ như sau:
Atha kho tesaṃ bhikkhūnaṃ etadahosi:
“Tôn giả Mahākaccāna được Thế Tôn tán thán, được các vị đồng Phạm hạnh có trí bắt chước.
“ayaṃ kho āyasmā mahākaccāno satthu ceva saṃvaṇṇito, sambhāvito ca viññūnaṃ sabrahmacārīnaṃ.
Tôn giả Mahākaccāna, với lời tuyên bố này được Thế Tôn nói lên một cách vắn tắt, không phân tích ý nghĩa một cách rộng rãi, có thể phân tích một cách rộng rãi.
Pahoti cāyasmā mahākaccāno imassa bhagavatā saṅkhittena uddesassa uddiṭṭhassa vitthārena atthaṃ avibhattassa vitthārena atthaṃ vibhajituṃ.
Vậy chúng ta hãy đi đến Tôn giả Mahākaccāna, sau khi đến, sẽ hỏi Tôn giả Mahākaccāna về ý nghĩa này.
Yannūna mayaṃ yenāyasmā mahākaccāno tenupasaṅkameyyāma; upasaṅkamitvā āyasmantaṃ mahākaccānaṃ etamatthaṃ puccheyyāma.
Tôn giả Mahākaccāna trả lời cho chúng ta như thế nào, chúng ta sẽ như vậy thọ trì.”
Yathā no āyasmā mahākaccāno byākarissati tathā naṃ dhāressāmā”ti.
3. Rồi các Tỷ-kheo ấy đi đến Tôn giả Mahākaccāna, sau khi đến nói lên với Tôn giả Mahākaccāna những lời chào đón hỏi thăm.
Atha kho te bhikkhū yenāyasmā mahākaccāno tenupasaṅkamiṃsu; upasaṅkamitvā āyasmatā mahākaccānena saddhiṃ sammodiṃsu.
Sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, liền ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, các Tỷ-kheo ấy nói với Tôn giả Mahākaccāna:
Sammodanīyaṃ kathaṃ sāraṇīyaṃ vītisāretvā ekamantaṃ nisīdiṃsu. Ekamantaṃ nisinnā kho te bhikkhū āyasmantaṃ mahākaccānaṃ etadavocuṃ:
Thưa Hiền giả Mahākaccāna. Thế Tôn sau khi nói lên một cách vắn tắt lời tuyên bố này, không phân tích ý nghĩa một cách rộng rãi, từ chỗ ngồi đứng dậy, đã đi vào tinh xá:
“Idaṃ kho no, āvuso kaccāna, bhagavā saṅkhittena uddesaṃ uddisitvā vitthārena atthaṃ avibhajitvā uṭṭhāyāsanā vihāraṃ paviṭṭho:
Phi pháp và pháp, này các Tỷ-kheo, cần phải hiểu biết, phi mục đích và mục đích cần phải hiểu biết.
‘adhammo ca, bhikkhave, veditabbo dhammo ca; anattho ca veditabbo attho ca.
Sau khi hiểu phi pháp và pháp, sau khi biết phi mục đích và mục đích, pháp như thế nào, mục đích như thế nào, như thế ấy cần phải thực hành.
Adhammañca viditvā dhammañca, anatthañca viditvā atthañca yathā dhammo yathā attho tathā paṭipajjitabban’ti.
Này Hiền giả, sau khi Thế Tôn đi không bao lâu, chúng tôi suy nghĩ như sau:
Tesaṃ no, āvuso, amhākaṃ acirapakkantassa bhagavato etadahosi:
‘Này chư Hiền, Thế Tôn sau khi nói lên một cách vắn tắt lời tuyên bố này, không phân tích ý nghĩa một cách rộng rãi, từ chỗ ngồi đứng dậy, đã đi vào tinh xá: “Phi pháp và pháp, này các Tỷ-kheo, cần phải hiểu biết, phi mục đích và mục đích cần phải hiểu biết. Sau khi biết phi pháp và pháp, sau khi biết phi mục đích và mục đích, pháp như thế nào, mục đích như thế nào, như thế ấy cần phải thực hành.
‘idaṃ kho no, āvuso, bhagavā saṅkhittena uddesaṃ uddisitvā vitthārena atthaṃ avibhajitvā uṭṭhāyāsanā vihāraṃ paviṭṭho—adhammo ca, bhikkhave ...pe... tathā paṭipajjitabbanti.
Với lời tuyên bố này được Thế Tôn nói lên một cách vắn tắt, không phân tích ý nghĩa một cách rộng rãi”, ai là người có thể phân tích một cách rộng rãi?’
Ko nu kho imassa bhagavatā saṅkhittena uddesassa uddiṭṭhassa vitthārena atthaṃ avibhattassa vitthārena atthaṃ vibhajeyyā’ti?
Rồi thưa Hiền giả, chúng tôi suy nghĩ như sau:
Tesaṃ no, āvuso, amhākaṃ etadahosi:
Tôn giả Mahākaccāna được Thế Tôn tán thán, được các vị đồng Phạm hạnh có trí bắt chước.
‘ayaṃ kho āyasmā mahākaccāno satthu ceva saṃvaṇṇito, sambhāvito ca viññūnaṃ sabrahmacārīnaṃ.
Tôn giả Mahākaccāna, với lời tuyên bố này được Thế Tôn nói lên một cách vắn tắt, không phân tích ý nghĩa một cách rộng rãi, có thể phân tích một cách rộng rãi.
Pahoti cāyasmā mahākaccāno imassa bhagavatā saṅkhittena uddesassa uddiṭṭhassa vitthārena atthaṃ avibhattassa vitthārena atthaṃ vibhajituṃ.
Vậy chúng ta hãy đi đến Tôn giả Mahākaccāna, sau khi đến, sẽ hỏi Tôn giả Mahākaccāna về ý nghĩa này.
Yannūna mayaṃ yenāyasmā mahākaccāno tenupasaṅkameyyāma; upasaṅkamitvā āyasmantaṃ mahākaccānaṃ etamatthaṃ paṭipuccheyyāma.
Tôn giả Mahākaccāna trả lời cho chúng ta như thế nào, chúng ta sẽ như vậy thọ trì
Yathā no āyasmā mahākaccāno byākarissati tathā naṃ dhāressāmā’ti.
“Thưa Tôn giả Mahākaccāna, hãy phân tích cho.”
Vibhajatu āyasmā mahākaccāno”ti.
“4. Chư Hiền, cũng ví như một người cần thiết lõi cây, tìm lõi cây, đi khắp mọi nơi tìm lõi cây, đến một cây to lớn, đứng thẳng và có lõi cây. Người này bỏ qua rễ, bỏ qua thân cây, nghĩ rằng: “Phải tìm lõi cây ở nơi cành lá”.
“Seyyathāpi, āvuso, puriso sāratthiko sāraṃ gavesī sārapariyesanaṃ caramāno mahato rukkhassa tiṭṭhato sāravato atikkammeva mūlaṃ atikkamma khandhaṃ sākhāpalāse sāraṃ pariyesitabbaṃ maññeyya.
Cũng vậy, là hành động của chư Tôn giả, đứng trước mặt Thế Tôn, quí vị bỏ qua Thế Tôn, nghĩ rằng: “Cần phải hỏi tôi về ý nghĩa này”.
Evaṃsampadamidaṃ āyasmantānaṃ satthari sammukhībhūte taṃ bhagavantaṃ atisitvā amhe etamatthaṃ paṭipucchitabbaṃ maññatha.
Chư Hiền, Thế Tôn biết những gì cần phải biết, thấy những gì cần phải thấy. Ngài đã trở thành vị có mắt, trở thành vị có trí, trở thành Chánh pháp, trở thành Phạm thiên, vị thuyết giả, vị diễn giả, vị đem lại mục tiêu, vị trao cho bất tử, vị Pháp chủ.
So hāvuso, bhagavā jānaṃ jānāti passaṃ passati cakkhubhūto ñāṇabhūto dhammabhūto brahmabhūto vattā pavattā atthassa ninnetā amatassa dātā dhammassāmī tathāgato.
Tuỳ thời hãy đến yết kiến Đức Thế Tôn và hỏi Ngài về vấn đề này.
So ceva panetassa kālo ahosi yaṃ tumhe bhagavantaṃyeva upasaṅkamitvā etamatthaṃ paṭipuccheyyātha.
Thế Tôn giải thích quý vị như thế nào, quí vị hãy như vậy thọ trì.”
Yathā vo bhagavā byākareyya tathā naṃ dhāreyyāthā”ti.
“5. Hiền giả Mahākaccāna, chắc chắn Thế Tôn biết những gì cần phải biết, thấy những gì cần phải thấy. Ngài đã trở thành vị có mắt, trở thành vị có trí, trở thành Chánh pháp, trở thành Phạm thiên, vị thuyết giả, vị diễn giả, vị đem lại mục tiêu, vị trao cho bất tử, vị Pháp chủ, Như Lai.
“Addhā, āvuso kaccāna, bhagavā jānaṃ jānāti passaṃ passati cakkhubhūto ñāṇabhūto dhammabhūto brahmabhūto vattā pavattā atthassa ninnetā amatassa dātā dhammassāmī tathāgato.
Chúng tôi phải tùy thời hỏi Thế Tôn ý nghĩa này.
So ceva panetassa kālo ahosi yaṃ mayaṃ bhagavantaṃyeva upasaṅkamitvā etamatthaṃ paṭipuccheyyāma.
Những gì Thế Tôn giải thích cho chúng tôi, chúng tôi sẽ như vậy thọ trì.
Yathā no bhagavā byākareyya tathā naṃ dhāreyyāma.
Nhưng Hiền giả Mahākaccāna được Thế Tôn tán thán, được các vị đồng Phạm hạnh có trí bắt chước.
Api cāyasmā mahākaccāno satthu ceva saṃvaṇṇito, sambhāvito ca viññūnaṃ sabrahmacārīnaṃ.
Hiền giả Mahākaccāna có thể giải thích rộng rãi ý nghĩa lời giảng dạy được Thế Tôn nói lên một cách vắn tắt mà không có phân tích ý nghĩa một cách rộng rãi.
Pahoti cāyasmā mahākaccāno imassa bhagavatā saṅkhittena uddesassa uddiṭṭhassa vitthārena atthaṃ avibhattassa vitthārena atthaṃ vibhajituṃ.
Mong Hiền giả Mahākaccāna giải thích, nếu không có sự gì phiền muộn.”
Vibhajatāyasmā mahākaccāno agaruṃ karitvā”ti.
“6. Vậy chư Hiền, hãy nghe và suy nghiệm kỹ, tôi sẽ giảng.”
“Tena hāvuso, suṇātha, sādhukaṃ manasi karotha, bhāsissāmī”ti.
“Thưa vâng Hiền giả,” các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Tôn giả Mahākaccāna. Tôn giả Mahākaccāna giảng như sau:
“Evaṃ, āvuso”ti kho te bhikkhū āyasmato mahākaccānassa paccassosuṃ. Athāyasmā mahākaccāno etadavoca:
“Reverends, the Buddha gave this brief passage for recitation, then entered his dwelling without explaining the meaning in detail:
“Yaṃ kho no, āvuso, bhagavā saṅkhittena uddesaṃ uddisitvā vitthārena atthaṃ avibhajitvā uṭṭhāyāsanā vihāraṃ paviṭṭho:
‘Thưa chư Hiền, Thế Tôn sau khi nói lên lời tuyên bố một cách vắn tắt mà không có phân tích ý nghĩa một cách rộng rãi, đã từ chỗ ngồi đứng dậy và đi vào tinh xá: “Phi pháp và pháp, này các Tỷ-kheo, cần phải hiểu biết, phi mục đích và mục đích cần phải hiểu biết. Sau khi biết phi pháp và pháp, sau khi biết phi mục đích và mục đích, pháp như thế nào, mục đích như thế nào, như thế ấy cần phải thực hành.”‘
‘adhammo ca, bhikkhave, veditabbo ...pe... tathā paṭipajjitabban’ti.
Và này chư Hiền, thế nào là phi pháp, thế nào là pháp, thế nào là phi mục đích và thế nào là mục đích?
Katamo cāvuso, adhammo; katamo ca dhammo? Katamo ca anattho, katamo ca attho?
Sát sanh, này Chư Hiền là phi Pháp; không sát sanh là Pháp;
Pāṇātipāto, āvuso, adhammo; pāṇātipātā veramaṇī dhammo;
những pháp ác bất thiện gì do duyên sát sanh khởi lên, đây là phi mục đích.
ye ca pāṇātipātapaccayā aneke pāpakā akusalā dhammā sambhavanti, ayaṃ anattho;
Và những pháp thiện không sát sanh đi đến viên mãn trong tu tập, đây là mục đích.
pāṇātipātā veramaṇipaccayā ca aneke kusalā dhammā bhāvanāpāripūriṃ gacchanti, ayaṃ attho.
Lấy của không cho, này Chư Hiền là phi Pháp; không lấy của không cho là Pháp;
Adinnādānaṃ, āvuso, adhammo; adinnādānā veramaṇī dhammo;
những pháp ác bất thiện gì do duyên lấy của không cho khởi lên, đây là phi mục đích.
ye ca adinnādānapaccayā aneke pāpakā akusalā dhammā sambhavanti, ayaṃ anattho;
Và những pháp thiện không lấy của không cho đi đến viên mãn trong tu tập, đây là mục đích.
adinnādānā veramaṇipaccayā ca aneke kusalā dhammā bhāvanāpāripūriṃ gacchanti, ayaṃ attho.
Tà hạnh trong các dục, này Chư Hiền là phi Pháp; không tà hạnh trong các dục là Pháp;
Kāmesumicchācāro, āvuso, adhammo; kāmesumicchācārā veramaṇī dhammo;
những pháp ác bất thiện gì do duyên tà hạnh trong các dục khởi lên, đây là phi mục đích.
ye ca kāmesumicchācārapaccayā aneke pāpakā akusalā dhammā sambhavanti, ayaṃ anattho;
Và những pháp thiện không tà hạnh trong các dục đi đến viên mãn trong tu tập, đây là mục đích.
kāmesumicchācārā veramaṇipaccayā ca aneke kusalā dhammā bhāvanāpāripūriṃ gacchanti, ayaṃ attho.
Nói láo, này Chư Hiền là phi Pháp; không nói láo là Pháp;
Musāvādo, āvuso, adhammo; musāvādā veramaṇī dhammo;
những pháp ác bất thiện gì do duyên nói láo khởi lên, đây là phi mục đích.
ye ca musāvādapaccayā aneke pāpakā akusalā dhammā sambhavanti, ayaṃ anattho;
Và những pháp thiện không nói láo đi đến viên mãn trong tu tập, đây là mục đích.
musāvādā veramaṇipaccayā ca aneke kusalā dhammā bhāvanāpāripūriṃ gacchanti, ayaṃ attho.
Nói hai lưỡi, này Chư Hiền là phi Pháp; không nói hai lưỡi là Pháp;
Pisuṇā vācā, āvuso, adhammo; pisuṇāya vācāya veramaṇī dhammo;
những pháp ác bất thiện gì do duyên nói hai lưỡi khởi lên, đây là phi mục đích.
ye ca pisuṇāvācāpaccayā aneke pāpakā akusalā dhammā sambhavanti, ayaṃ anattho;
Và những pháp thiện không nói hai lưỡi đi đến viên mãn trong tu tập, đây là mục đích.
pisuṇāya vācāya veramaṇipaccayā ca aneke kusalā dhammā bhāvanāpāripūriṃ gacchanti, ayaṃ attho.
Nói lời độc ác, này Chư Hiền là phi Pháp; không nói lời độc ác là Pháp;
Pharusā vācā, āvuso, adhammo; pharusāya vācāya veramaṇī dhammo;
những pháp ác bất thiện gì do duyên nói lời độc ác khởi lên, đây là phi mục đích.
ye ca pharusāvācāpaccayā aneke pāpakā akusalā dhammā sambhavanti, ayaṃ anattho;
Và những pháp thiện không nói lời độc ác đi đến viên mãn trong tu tập, đây là mục đích.
pharusāya vācāya veramaṇipaccayā ca aneke kusalā dhammā bhāvanāpāripūriṃ gacchanti, ayaṃ attho.
Nói lời phù phiếm, này Chư Hiền là phi Pháp; không nói lời phù phiếm là Pháp;
Samphappalāpo, āvuso, adhammo; samphappalāpā veramaṇī dhammo;
những pháp ác bất thiện gì do duyên nói lời phù phiếm khởi lên, đây là phi mục đích.
ye ca samphappalāpapaccayā aneke pāpakā akusalā dhammā sambhavanti, ayaṃ anattho;
Và những pháp thiện không nói lời phù phiếm đi đến viên mãn trong tu tập, đây là mục đích.
samphappalāpā veramaṇipaccayā ca aneke kusalā dhammā bhāvanāpāripūriṃ gacchanti, ayaṃ attho.
Tham, này Chư Hiền là phi Pháp; không tham là Pháp;
Abhijjhā, āvuso, adhammo; anabhijjhā dhammo;
những pháp ác bất thiện gì do duyên tham khởi lên, đây là phi mục đích.
ye ca abhijjhāpaccayā aneke pāpakā akusalā dhammā sambhavanti, ayaṃ anattho;
Và những pháp thiện không tham đi đến viên mãn trong tu tập, đây là mục đích.
anabhijjhāpaccayā ca aneke kusalā dhammā bhāvanāpāripūriṃ gacchanti, ayaṃ attho.
Sân, này Chư Hiền là phi Pháp; không sân là Pháp;
Byāpādo, āvuso, adhammo; abyāpādo dhammo;
những pháp ác bất thiện gì do duyên sân khởi lên, đây là phi mục đích.
ye ca byāpādapaccayā aneke pāpakā akusalā dhammā sambhavanti, ayaṃ anattho;
Và những pháp thiện không sân đi đến viên mãn trong tu tập, đây là mục đích.
abyāpādapaccayā ca aneke kusalā dhammā bhāvanāpāripūriṃ gacchanti, ayaṃ attho.
Tà kiến này Chư Hiền là phi Pháp; chánh kiến là Pháp;
Micchādiṭṭhi, āvuso, adhammo; sammādiṭṭhi dhammo;
những pháp ác bất thiện gì do duyên tà kiến khởi lên, đây là phi mục đích.
ye ca micchādiṭṭhipaccayā aneke pāpakā akusalā dhammā sambhavanti, ayaṃ anattho;
Và những pháp thiện chánh kiến đi đến viên mãn trong tu tập, đây là mục đích.
sammādiṭṭhipaccayā ca aneke kusalā dhammā bhāvanāpāripūriṃ gacchanti, ayaṃ attho.
‘Thưa các Hiền giả, Thế Tôn sau khi nói lên lời tuyên bố này một cách vắn tắt mà không phân tích ý nghĩa một cách rộng rãi, từ chỗ ngồi đứng dậy, đã đi vào tinh xá:
‘Yaṃ kho no, āvuso, bhagavā saṅkhittena uddesaṃ uddisitvā vitthārena atthaṃ avibhajitvā uṭṭhāyāsanā vihāraṃ paviṭṭho—
‘Phi pháp và pháp, này các Tỷ-kheo, cần phải hiểu biết, phi mục đích và mục đích cần phải hiểu biết. Sau khi biết phi pháp và pháp, sau khi biết phi mục đích và mục đích, pháp như thế nào, mục đích như thế nào, như thế ấy cần phải thực hành.’
adhammo ca, bhikkhave, veditabbo ...pe... tathā paṭipajjitabban’ti.
Thưa các Hiền giả, lời tuyên bố vắn tắt này của Thế Tôn mà không phân tích ý nghĩa một cách rộng rãi, tôi hiểu ý nghĩa rộng rãi như vậy.
Imassa kho ahaṃ, āvuso, bhagavatā saṅkhittena uddesassa uddiṭṭhassa vitthārena atthaṃ avibhattassa evaṃ vitthārena atthaṃ ājānāmi.
Thưa chư Hiền, nếu chư Hiền muốn, hãy đi đến Thế Tôn và hỏi ý nghĩa này.
Ākaṅkhamānā ca pana tumhe, āvuso, bhagavantaṃyeva upasaṅkamitvā etamatthaṃ paṭipuccheyyātha.
Thế Tôn trả lời như thế nào, hãy như vậy thọ trì.”
Yathā no bhagavā byākaroti tathā naṃ dhāreyyāthā”ti.
“Thưa vâng, Hiền giả,” các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ tín thọ lời Tôn giả Mahākaccāna, từ chỗ ngồi đứng dậy, đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, các Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:
“Evamāvuso”ti kho te bhikkhū āyasmato mahākaccānassa bhāsitaṃ abhinanditvā anumoditvā uṭṭhāyāsanā yena bhagavā tenupasaṅkamiṃsu; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdiṃsu. Ekamantaṃ nisinnā kho te bhikkhū bhagavantaṃ etadavocuṃ:
8. Bạch Thế Tôn, Thế Tôn sau khi nói lên lời tuyên bố một cách vắn tắt mà không có phân tích ý nghĩa một cách rộng rãi, từ chỗ ngồi đứng dậy và đi vào tinh xá:
“Yaṃ kho no, bhante, bhagavā saṅkhittena uddesaṃ uddisitvā vitthārena atthaṃ avibhajitvā uṭṭhāyāsanā vihāraṃ paviṭṭho:
‘Phi pháp và pháp, này các Tỷ-kheo, cần phải hiểu biết, phi mục đích và mục đích cần phải hiểu biết. Sau khi biết phi pháp và pháp, sau khi biết phi mục đích và mục đích, pháp như thế nào, mục đích như thế nào, như thế ấy cần phải thực hành’
‘adhammo ca, bhikkhave, veditabbo ...pe... tathā paṭipajjitabban’ti.
Bạch Thế Tôn, sau khi Thế Tôn đi không bao lâu, chúng con suy nghĩ như sau:
Tesaṃ no, bhante, amhākaṃ acirapakkantassa bhagavato etadahosi:
‘Này chư Hiền, Thế Tôn sau khi nói lên lời tuyên bố một cách vắn tắt mà không có phân tích ý nghĩa một cách rộng rãi, từ chỗ ngồi đứng dậy đi vào tinh xá: ‘Phi pháp và pháp cần phải hiểu biết… hãy như thế ấy mà thực hành’.
‘idaṃ kho no, āvuso, bhagavā saṅkhittena uddesaṃ uddisitvā vitthārena atthaṃ avibhajitvā uṭṭhāyāsanā vihāraṃ paviṭṭho: “adhammo ca, bhikkhave, veditabbo ...pe... tathā paṭipajjitabban”ti.
Với lời tuyên bố vắn tắt này của Thế Tôn, không phân tích ý nghĩa một cách rộng rãi, ai là người có thể phân tích ý nghĩa một cách rộng rãi?’
Ko nu kho imassa bhagavatā saṅkhittena uddesassa uddiṭṭhassa vitthārena atthaṃ avibhattassa vitthārena atthaṃ vibhajeyyā’ti?
Rồi bạch Thế Tôn, chúng con suy nghĩ như sau:
Tesaṃ no, bhante, amhākaṃ etadahosi:
Tôn giả Mahākaccāna được Thế Tôn tán thán, được các vị đồng Phạm hạnh có trí bắt chước.
‘ayaṃ kho āyasmā mahākaccāno satthu ceva saṃvaṇṇito, sambhāvito ca viññūnaṃ sabrahmacārīnaṃ.
Tôn giả Mahākaccāna với lời tuyên bố này được Thế Tôn nói lên một cách vắn tắt, không phân tích ý nghĩa một cách rộng rãi, có thể phân tích một cách rộng rãi.
Pahoti cāyasmā mahākaccāno imassa bhagavatā saṅkhittena uddesassa uddiṭṭhassa vitthārena atthaṃ avibhattassa vitthārena atthaṃ vibhajituṃ.
Vậy chúng ta hãy đi đến Tôn giả Mahākaccāna và hỏi ý nghĩa này
Yannūna mayaṃ yenāyasmā mahākaccāno tenupasaṅkameyyāma; upasaṅkamitvā āyasmantaṃ mahākaccānaṃ etamatthaṃ paṭipuccheyyāma.
Bạch Thế Tôn, chúng con đã đi đến Tôn giả Mahākaccāna và hỏi ý nghĩa này.’
Yathā no āyasmā mahākaccāno byākarissati tathā naṃ dhāressāmā’ti.
“Bạch Thế Tôn, ý nghĩa của chúng được Tôn giả Mahākaccāna khéo phân tích với những lý do như thế này, với những chữ như thế này, với những chữ như thế này, với những câu văn như thế này.
Atha kho mayaṃ, bhante, yenāyasmā mahākaccāno tenupasaṅkamimhā; upasaṅkamitvā āyasmantaṃ mahākaccānaṃ etamatthaṃ apucchimhā.
Bạch Thế Tôn, ý nghĩa của chúng được Tôn giả Mahākaccāna khéo phân tích với những lý do như thế này, với những chữ như thế này, với những chữ như thế này, với những câu văn như thế này.”
Tesaṃ no, bhante, āyasmatā mahākaccānena imehi akkharehi imehi padehi imehi byañjanehi attho suvibhatto”ti.
“9. Lành thay, lành thay, này các Tỷ-khe.
“Sādhu sādhu, bhikkhave.
Hiền trí là Hiền giả Mahākaccāna! Ðại tuệ là Hiền giả Mahākaccāna!
Paṇḍito, bhikkhave, mahākaccāno. Mahāpañño, bhikkhave, mahākaccāno.
Này các Tỷ-kheo, nếu các Thầy đến hỏi Ta về ý nghĩa này, Ta cũng trả lời như vậy, như đã được Mahākaccāna trả lời.
Mañcepi tumhe, bhikkhave, upasaṅkamitvā etamatthaṃ paṭipuccheyyātha, ahampi cetaṃ evamevaṃ byākareyyaṃ yathā taṃ mahākaccānena byākataṃ.
Ðây là ý nghĩa của lời ấy, hãy như vậy thọ trì.”
Eso ceva tassa attho. Evañca naṃ dhāreyyāthā”ti.
Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt