Sáng/Tối
🔍 Việt 🔍 Pali 🔊 About

Aṅguttara Nikāya - Tăng Chi Bộ Kinh

Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Tăng Chi Bộ 10.89

Tăng Chi Bộ 10.89
Aṅguttara Nikāya 10.89

9. Phẩm Trưởng Lão
9. Theravagga

Tỷ Kheo Kokalika
Kokālikasutta

1. Bấy giờ có Tỷ-kheo Kokālika đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả Kokālika bạch Thế Tôn:
Atha kho kokāliko bhikkhu yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho kokāliko bhikkhu bhagavantaṃ etadavoca:

“Bạch Thế Tôn, Sāriputta và Moggallāna là ác dục, bị ác dục chinh phục.”
“pāpicchā, bhante, sāriputtamoggallānā, pāpikānaṃ icchānaṃ vasaṃ gatā”ti.

“Này Kokālika, chớ có nói vậy! Này Kokālika, chớ có nói vậy!
“Mā hevaṃ, kokālika, mā hevaṃ, kokālika.

Này Kokālika, tâm hãy tịnh tín đối với Sāriputta và Moggallāna.
Pasādehi, kokālika, sāriputtamoggallānesu cittaṃ.

Hiền thiện là Sāriputta và Moggallāna.”
Pesalā sāriputtamoggallānā”ti.

Lần thứ hai, Tỷ-kheo Kokālika bạch Thế Tôn:
Dutiyampi kho kokāliko bhikkhu bhagavantaṃ etadavoca:

“Bạch Thế Tôn, dầu Thế Tôn có lòng tin và tin tưởng, đối với con Sāriputta và Moggallāna là ác dục, bị ác dục chinh phục.”
“kiñcāpi me, bhante, bhagavā saddhāyiko paccayiko, atha kho pāpicchāva sāriputtamoggallānā, pāpikānaṃ icchānaṃ vasaṃ gatā”ti.

“Này Kokālika, chớ có nói vậy! Này Kokālika, chớ có nói vậy!
“Mā hevaṃ, kokālika, mā hevaṃ, kokālika.

Này Kokālika, tâm hãy tịnh tín đối với Sāriputta và Moggallāna.
Pasādehi, kokālika, sāriputtamoggallānesu cittaṃ.

Hiền thiện là Sāriputta và Moggallāna.”
Pesalā sāriputtamoggallānā”ti.

Lần thứ ba, Tỷ-kheo Kokālika bạch Thế Tôn:
Tatiyampi kho kokāliko bhikkhu bhagavantaṃ etadavoca:

“Bạch Thế Tôn, dầu Thế Tôn có lòng tin và tin tưởng, đối với con Sāriputta và Moggallāna là ác dục, bị ác dục chinh phục.”
“kiñcāpi me, bhante, bhagavā saddhāyiko paccayiko, atha kho pāpicchāva sāriputtamoggallānā, pāpikānaṃ icchānaṃ vasaṃ gatā”ti.

“Này Kokālika, chớ có nói vậy! Này Kokālika, chớ có nói vậy!
“Mā hevaṃ, kokālika, mā hevaṃ, kokālika.

Này Kokālikaa, tâm hãy tịnh tín đối với Sàripuuta và Moggallāna.
Pasādehi, kokālika, sāriputtamoggallānesu cittaṃ.

Hiền thiện là Sāriputta và Moggallāna.”
Pesalā sāriputtamoggallānā”ti.

2. Rồi Tỷ-kheo Kokālika từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân bên hữu hướng về Thế Tôn rồi ra đi.
Atha kho kokāliko bhikkhu uṭṭhāyāsanā bhagavantaṃ abhivādetvā padakkhiṇaṃ katvā pakkāmi.

Tỷ-kheo Kokālika ra đi không bao lâu, toàn thân của Tỷ-kheo Kokālika nổi lên những mụt to bằng hạt cải.
Acirapakkantassa ca kokālikassa bhikkhuno sāsapamattīhi pīḷakāhi sabbo kāyo phuṭo ahosi.

sau khi lớn bằng hạt cải, chúng lớn lên bằng hột đậu; sau khi lớn lên bằng hột đậu, chúng lớn lên bằng hạt đậu lớn; sau khi lớn bằng hột đậu lớn, chúng lớn lên bằng hòn sỏi; sau khi lớn bằng hòn sỏi Kolatthi, chúng lớn lên bằng hột táo; sau khi lớn lên bằng hột táo, chúng lớn lên bằng trái Amala (A-ma-lặc); sau khi lớn lên bằng trái Amala, chúng lớn lên bằng trái dưa (trái vilva); sau khi lớn lên bằng trái dưa vilva, chúng lớn lên bằng trái billa (trái dưa đã chín); sau khi lớn lên bằng trái billa, chúng bị phá vỡ, mủ và máu chảy ra.
Sāsapamattiyo hutvā muggamattiyo ahesuṃ, muggamattiyo hutvā kalāyamattiyo ahesuṃ, kalāyamattiyo hutvā kolaṭṭhimattiyo ahesuṃ, kolaṭṭhimattiyo hutvā kolamattiyo ahesuṃ, kolamattiyo hutvā āmalakamattiyo ahesuṃ, āmalakamattiyo hutvā tiṇḍukamattiyo ahesuṃ, tiṇḍukamattiyo hutvā, beḷuvasalāṭukamattiyo ahesuṃ, beḷuvasalāṭukamattiyo hutvā billamattiyo ahesuṃ, billamattiyo hutvā pabhijjiṃsu, pubbañca lohitañca pagghariṃsu.

Tại đây, vị ấy nằm trên lá chuối, như con cá ăn phải đồ độc.
So sudaṃ kadalipattesu seti macchova visagilito.

3. Lúc ấy có độc giác Phạm thiên Turū đi đến Tỷ-kheo Kokālika, sau khi đến, đứng trên hư không và nói với Tỷ-kheo Kokālika:
Atha kho turū paccekabrahmā yena kokāliko bhikkhu tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā vehāse ṭhatvā kokālikaṃ bhikkhuṃ etadavoca:

“Này Kokālika, hãy đặt tâm tịnh tín nơi Sāriputta và Moggallāna,
“pasādehi, kokālika, sāriputtamoggallānesu cittaṃ.

Hiền thiện là Sāriputta và Moggallāna.”
Pesalā sāriputtamoggallānā”ti.

“Ông là ai?”
“Kosi tvaṃ, āvuso”ti?

“Ta là độc giác Phạm thiên Turū.”
“Ahaṃ turū paccekabrahmā”ti.

“Thưa Hiền giả, có phải Hiền giả là người được Thế Tôn trả lời là đã chứng Bất lai? Sao người lại đến đây?
“Nanu tvaṃ, āvuso, bhagavatā anāgāmī byākato, atha kiñcarahi idhāgato?

Hãy xem như thế nào người đã lầm lạc trong vấn đề này!”
Passa yāvañca te idaṃ aparaddhan”ti.

Rồi độc giác Phạm thiện Turū nói lên với Tỷ-kheo Kokālika bài kệ này:
Atha kho turū paccekabrahmā kokālikaṃ bhikkhuṃ gāthāhi ajjhabhāsi:

Con người được sanh ra,
Sanh với búa trong miệng,
Người ngu nói điều xấu,
Là tự chém vào mình.
“Purisassa hi jātassa,
kuṭhārī jāyate mukhe;
Yāya chindati attānaṃ,
bālo dubbhāsitaṃ bhaṇaṃ.

Ai khen người đáng chê,
Ai chê người đáng khen,
Ðều chất chứa bất hạnh,
Do từ miệng tạo thành,
Và chính do bất hạnh,
Nên không được an lạc.
Yo nindiyaṃ pasaṃsati,
Taṃ vā nindati yo pasaṃsiyo;
Vicināti mukhena so kaliṃ,
Kalinā tena sukhaṃ na vindati.

Nhỏ thay, bất hạnh này,
Chính do cờ bạc sanh,
Khiến tài sản tiêu hao,
Bất hạnh này lớn hơn,
Không những mất tất cả,
Lại mất cả tự mình,
Là người khởi ác ý
Ðối với chư Thiện Thệ.
Appamattako ayaṃ kali,
Yo akkhesu dhanaparājayo;
Sabbassāpi sahāpi attanā,
Ayameva mahattaro kali;
Yo sugatesu manaṃ padūsaye.

Ai chỉ trích bậc Thánh,
Với lời, với ác ý,
Trải qua trăm ngàn thời,
Với ni-ra-bu-đa,
Còn thêm ba mươi sáu,
Với năm a-bu-đa,
Còn thêm ba mươi sáu,
Với năm a-bu-đa,
Phải sanh vào địa ngục
Chịu khổ đau tại đấy.
Sataṃ sahassānaṃ nirabbudānaṃ,
Chattiṃsati pañca ca abbudāni;
Yamariyagarahī nirayaṃ upeti,
Vācaṃ manañca paṇidhāya pāpakan”ti.

4. Rồi Tỷ-kheo Kokālika, do chứng bệnh ấy mệnh chung.
Atha kho kokāliko bhikkhu teneva ābādhena kālamakāsi.

Sau khi chết, Tỷ-kheo Kokālika sanh vào địa ngục sen hồng vì tâm khởi ác ý đối với Sāriputta và Moggallāna.
Kālaṅkato ca kokāliko bhikkhu padumaṃ nirayaṃ upapajjati sāriputtamoggallānesu cittaṃ āghātetvā.

Rồi Phạm thiên Sahampati, sau khi đêm gần mãn, với dung sắc thù thắng chói sáng toàn vùng Jetavana, đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng một bên, đứng một bên, Phạm thiên Sahampati bạch Thế Tôn:
Atha kho brahmā sahampati abhikkantāya rattiyā abhikkantavaṇṇo kevalakappaṃ jetavanaṃ obhāsetvā yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ aṭṭhāsi. Ekamantaṃ ṭhito kho brahmā sahampati bhagavantaṃ etadavoca:

“Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo Kokālika đã mệnh chung.
“kokāliko, bhante, bhikkhu kālaṅkato.

Phải sanh vào địa ngục sen hồng, vì tâm khởi ác ý đối với Sāriputta và Moggallāna”
Kālaṅkato ca, bhante, kokāliko bhikkhu padumaṃ nirayaṃ upapanno sāriputtamoggallānesu cittaṃ āghātetvā”ti.

Phạm thiên Sahampati nói như vậy.
Idamavoca brahmā sahampati.

Nói như vậy xong, đảnh lễ Thế Tôn, thân phía hữu hướng về Thế Tôn rồi biến mất tại chỗ.
Idaṃ vatvā bhagavantaṃ abhivādetvā padakkhiṇaṃ katvā tatthevantaradhāyi.

5. Rồi Thế Tôn, sau khi đêm đã qua, bảo các Tỷ-kheo:
Atha kho bhagavā tassā rattiyā accayena bhikkhū āmantesi:

Này các Tỷ-kheo, đêm nay Phạm thiên Sahampati khi đêm đã gần mãn, với dung sắc thù thắng chói sáng toàn vùng Jetavana, đi đến Ta; sau khi đến, đảnh lễ Ta rồi đứng một bên, đứng một bên, này các Tỷ-kheo, Phạm thiên Sahampati thưa với Ta:
“imaṃ, bhikkhave, rattiṃ brahmā sahampati abhikkantāya rattiyā abhikkantavaṇṇo kevalakappaṃ jetavanaṃ obhāsetvā yenāhaṃ tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā maṃ abhivādetvā ekamantaṃ aṭṭhāsi. Ekamantaṃ ṭhito kho, bhikkhave, brahmā sahampati maṃ etadavoca:

‘Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo Kokālika đã mệnh chung. Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo Kokàika đã mệnh chung, phải sanh vào địa ngục sen hồng, vì tâm khởi ác ý đối với Sāriputta và Moggallāna’.
‘kokāliko, bhante, bhikkhu kālaṅkato; kālaṅkato ca, bhante, kokāliko bhikkhu padumaṃ nirayaṃ upapanno sāriputtamoggallānesu cittaṃ āghātetvā’ti.

Này các Tỷ-kheo, Phạm thiên Sahampati nói như vậy. Nói như vậy xong, đảnh lễ Ta, thân phía hữu hướng về Ta rồi biến mất tại chỗ.
Idamavoca, bhikkhave, brahmā sahampati. Idaṃ vatvā maṃ abhivādetvā padakkhiṇaṃ katvā tatthevantaradhāyī”ti.

6. Khi nghe nói vậy, một Tỷ-kheo bạch Thế Tôn:
Evaṃ vutte, aññataro bhikkhu bhagavantaṃ etadavoca:

“Bạch Thế Tôn, lâu dài bao nhiêu, là tuổi thọ ở địa ngục sen hồng?”
“kīva dīghaṃ nu kho, bhante, padume niraye āyuppamāṇan”ti?

“Này Tỷ-kheo, tuổi thọ ở địa ngục sen hồng.
“Dīghaṃ kho, bhikkhu, padume niraye āyuppamāṇaṃ.

Rất khó mà tính được: ‘có chừng ấy năm, hay có chừng ấy trăm năm, hay có chừng ấy ngàn năm, hay có chừng ấy trăm ngàn năm’”.
Na taṃ sukaraṃ saṅkhātuṃ: ‘ettakāni vassānīti vā ettakāni vassasatānīti vā ettakāni vassasahassānīti vā ettakāni vassasatasahassānīti vā’”ti.

“Bạch Thế Tôn, có thể cho một ví dụ được chăng?”
“Sakkā pana, bhante, upamaṃ kātun”ti?

“Này Tỷ-kheo, có thể được,” Đức Thế Tôn đáp:
“Sakkā, bhikkhū”ti bhagavā avoca:

“Này Tỷ-kheo, một cỗ xe chở hai mươi cân Kosala chở đầy hột mè. Rồi một người cứ sau một trăm năm, một trăm năm, một trăm năm lấy lên một hột mè.
“seyyathāpi, bhikkhu, vīsatikhāriko kosalako tilavāho tato puriso vassasatassa vassasatassa accayena ekamekaṃ tilaṃ uddhareyya.

Mau hơn, này Tỷ-kheo, là cỗ xe chở hai mươi cân Kosala chở đầy hột mè, do phương pháp này, đi đến tận sạch, không còn gì nữa, cũng chưa đủ là một Abbuda địa ngục.
Khippataraṃ kho so, bhikkhu, vīsatikhāriko kosalako tilavāho iminā upakkamena parikkhayaṃ pariyādānaṃ gaccheyya, na tveva eko abbudo nirayo.

Ví như, này Tỷ-kheo, hai mươi Abbuda địa ngục là bằng một Nirabbuda địa ngục.
Seyyathāpi, bhikkhu, vīsati abbudā nirayā; evameko nirabbudo nirayo.

Ví như, này Tỷ-kheo, hai mươi Nirabbuda địa ngục bằng một Ababa địa ngục.
Seyyathāpi, bhikkhu, vīsati nirabbudā nirayā; evameko ababo nirayo.

Ví như, này Tỷ-kheo, hai mươi Ababā địa ngục bằng một Aṭaṭa địa ngục.
Seyyathāpi, bhikkhu, vīsati ababā nirayā; evameko aṭaṭo nirayo.

Ví như, này Tỷ-kheo, hai mươi Aṭaṭa địa ngục bằng một Ahaha địa ngục.
Seyyathāpi, bhikkhu, vīsati aṭaṭā nirayā; evameko ahaho nirayo.

Ví như, này Tỷ-kheo, hai mươi Ahahā địa ngục bằng một Kumuda địa ngục.
Seyyathāpi, bhikkhu, vīsati ahahā nirayā; evameko kumudo nirayo.

Ví như, này Tỷ-kheo, hai mươi Kumudā địa ngục là bằng một Sogandhika địa ngục.
Seyyathāpi, bhikkhu, vīsati kumudā nirayā; evameko sogandhiko nirayo.

Ví như, này Tỷ-kheo, hai mươi Sogandhika địa ngục bằng một Uppalaka địa ngục.
Seyyathāpi, bhikkhu, vīsati sogandhikā nirayā; evameko uppalako nirayo.

Ví như, này Tỷ-kheo, hai mươi Uppalako địa ngục bằng một Puṇḍarīka địa ngục.
Seyyathāpi, bhikkhu, vīsati uppalakā nirayā; evameko puṇḍarīko nirayo.

Ví như, này Tỷ-kheo, hai mươi Puṇḍarīka địa ngục bằng một Paduma địa ngục.
Seyyathāpi, bhikkhu, vīsati puṇḍarīkā nirayā; evameko padumo nirayo.

Này Tỷ kheo, Tỷ kheo Kokālika phải sanh vào địa ngục Paduma (sen hồng), vì khởi lên ác ý đối với Sāriputta và Moggallāna.”
Padumaṃ kho pana, bhikkhu, nirayaṃ kokāliko bhikkhu upapanno sāriputtamoggallānesu cittaṃ āghātetvā”ti.

Thế Tôn nói như vậy. Thiện Thệ nói như vậy xong, bậc Đạo Sư lại nói thêm:
Idamavoca bhagavā. Idaṃ vatvāna sugato athāparaṃ etadavoca satthā:

Con người được sanh ra,
Sanh với búa trong miệng,
Người ngu nói điều xấu,
Là tự chém vào mình.
“Purisassa hi jātassa,
kuṭhārī jāyate mukhe;
Yāya chindati attānaṃ,
bālo dubbhāsitaṃ bhaṇaṃ.

Ai khen người đáng chê,
Ai chê người đáng khen,
Ðều chất chứa bất hạnh,
Do từ miệng tạo thành,
Và chính do bất hạnh,
Nên không được an lạc.
Yo nindiyaṃ pasaṃsati,
Taṃ vā nindati yo pasaṃsiyo;
Vicināti mukhena so kaliṃ,
Kalinā tena sukhaṃ na vindati.

Nhỏ thay, bất hạnh này,
Chính do cờ bạc sanh,
Khiến tài sản tiêu hao,
Bất hạnh này lớn hơn,
Không những mất tất cả,
Lại mất cả tự mình,
Là người khởi ác ý
Ðối với chư Thiện Thệ.
Appamattako ayaṃ kali,
Yo akkhesu dhanaparājayo;
Sabbassāpi sahāpi attanā,
Ayameva mahattaro kali;
Yo sugatesu manaṃ padūsaye.

Ai chỉ trích bậc Thánh,
Với lời, với ác ý,
Trải qua trăm ngàn thời,
Với ni-ra-bu-đa,
Còn thêm ba mươi sáu,
Với năm a-bu-đa,
Còn thêm ba mươi sáu,
Với năm a-bu-đa,
Phải sanh vào địa ngục
Chịu khổ đau tại đấy.
Sataṃ sahassānaṃ nirabbudānaṃ,
Chattiṃsati pañca ca abbudāni;
Yamariyagarahī nirayaṃ upeti,
Vācaṃ manañca paṇidhāya pāpakan”ti.


Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt