Tiểu Bộ Kinh
Khuddaka Nikāya
Kinh Phật Thuyết Như Vậy
Itivuttaka
Iti 106
Sabrahmakasutta
Ðiều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đã được nghe:
Vuttañhetaṃ bhagavatā vuttamarahatāti me sutaṃ:
Những gia đình nào, này các Tỷ-kheo, trong ấy các con cái kính lễ mẹ cha ở trong nhà, những gia đình ấy được chấp nhận ngang bằng với Phạm thiên.
“Sabrahmakāni, bhikkhave, tāni kulāni yesaṃ puttānaṃ mātāpitaro ajjhāgāre pūjitā honti. Sapubbadevatāni, bhikkhave, tāni kulāni yesaṃ puttānaṃ mātāpitaro ajjhāgāre pūjitā honti.
Những gia đình nào, này các Tỷ-kheo, trong ấy các con cái kính lễ mẹ cha ở trong nhà, những gia đình ấy được chấp nhận như các đạo sư thời xưa.
Sapubbācariyakāni, bhikkhave, tāni kulāni yesaṃ puttānaṃ mātāpitaro ajjhāgāre pūjitā honti.
Những gia đình nào, này các Tỷ-kheo, trong ấy con cái kính lễ mẹ cha ở trong nhà, những gia đình ấy được chấp nhận là đáng được cúng dường.
Sāhuneyyakāni, bhikkhave, tāni kulāni yesaṃ puttānaṃ mātāpitaro ajjhāgāre pūjitā honti.
Phạm thiên, này các Tỷ-kheo, là đồng nghĩa với mẹ cha. Các đạo sư thời xưa, này các Tỷ-kheo, là đồng nghĩa với mẹ cha.
‘Brahmā’ti, bhikkhave, mātāpitūnaṃ etaṃ adhivacanaṃ. ‘Pubbadevatā’ti, bhikkhave, mātāpitūnaṃ etaṃ adhivacanaṃ.
Ðáng được cúng dường, này các Tỷ-kheo, là đồng nghĩa với mẹ cha.
‘Pubbācariyā’ti, bhikkhave, mātāpitūnaṃ etaṃ adhivacanaṃ. ‘Āhuneyyā’ti, bhikkhave, mātāpitūnaṃ etaṃ adhivacanaṃ.
Vì cớ sao? Giúp đỡ rất nhiều, này các Tỷ-kheo, là mẹ cha đối với con cái, nuôi chúng lớn, dưỡng dục chúng, giới thiệu chúng vào đời.
Taṃ kissa hetu? Bahukārā, bhikkhave, mātāpitaro puttānaṃ āpādakā posakā imassa lokassa dassetāro”ti.
Thế Tôn đã nói lên ý nghĩa này. Ở đây điều này được nói đến:
Etamatthaṃ bhagavā avoca. Tatthetaṃ iti vuccati:
Mẹ cha gọi Phạm thiên,
Bậc Ðạo Sư thời trước,
Xứng đáng để con cháu,
Nuôi dưỡng và cúng dường.
“Brahmāti mātāpitaro,
pubbācariyāti vuccare;
Āhuneyyā ca puttānaṃ,
pajāya anukampakā.
Do vậy, bậc hiền triết,
Ðảnh lễ và tôn trọng,
Dâng đồ ăn đồ uống,
Vải mặc và giường nằm,
Thoa bóp cả thân mình,
Tắm rửa cả chân tay.
Tasmā hi ne namasseyya,
sakkareyya ca paṇḍito;
Annena atha pānena,
vatthena sayanena ca;
Ucchādanena nhāpanena,
pādānaṃ dhovanena ca.
Với sở hành như vậy,
Ðối với mẹ và cha,
Ðời này người hiền khen,
Dời sau hưởng Thiên lạc.
Tāya naṃ pāricariyāya,
mātāpitūsu paṇḍitā;
Idheva naṃ pasaṃsanti,
pecca sagge pamodatī”ti.
Ý nghĩa này được Thế Tôn nói đến, và tôi đã được nghe.
Ayampi attho vutto bhagavatā, iti me sutanti.
Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt