Sáng/Tối
🔍 Việt 🔍 Pali 🔊 About

Majjhima Nikāya - Trung Bộ Kinh

Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Trung Bộ 144

Trung Bộ 144
Majjhima Nikāya 144

Kinh Giáo Giới Channa
Channovādasutta

Như vầy tôi nghe.
Evaṃ me sutaṃ—

Một thời, Thế Tôn ở Rājagaha (Vương Xá), Veluvana (Trúc-lâm), tại chỗ nuôi dưỡng sóc (Kalandakanivapa).
ekaṃ samayaṃ bhagavā rājagahe viharati veḷuvane kalandakanivāpe.

Lúc bấy giờ Tôn giả Sāriputta (Xá-lợi-phất), Tôn giả Mahācunda (Ðại Chu-na) và Tôn giả Channa (Xiển-đà) cùng trú ở Gijjhakuta (Linh Thứu).
Tena kho pana samayena āyasmā ca sāriputto āyasmā ca mahācundo āyasmā ca channo gijjhakūṭe pabbate viharanti.

Lúc bấy giờ, Tôn giả Channa bị bệnh, đau khổ, bị trọng bệnh.
Tena kho pana samayena āyasmā channo ābādhiko hoti dukkhito bāḷhagilāno.

Rồi Tôn giả Sāriputta, vào buổi chiều từ Thiền tịnh độc cư đứng dậy, đi đến Tôn giả Mahācunda, sau khi đến, nói với Tôn giả Mahācunda:
Atha kho āyasmā sāriputto sāyanhasamayaṃ paṭisallānā vuṭṭhito yenāyasmā mahācundo tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā āyasmantaṃ mahācundaṃ etadavoca:

“Chúng ta hãy đi, này Hiền giả Cunda, chúng ta hãy đi đến Tôn giả Channa để hỏi thăm bệnh trạng”.
“āyāmāvuso cunda, yenāyasmā channo tenupasaṅkamissāma gilānapucchakā”ti.

“Thưa vâng, Hiền giả”. Tôn giả Mahācunda vâng đáp Tôn giả Sāriputta.
“Evamāvuso”ti kho āyasmā mahācundo āyasmato sāriputtassa paccassosi.

Rồi Tôn giả Sāriputta cùng với Tôn giả Mahācunda đi đến Tôn giả Channa; sau khi đến, nói lên với Tôn giả Channa những lời chào đón hỏi thăm; sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, liền ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả Sāriputta nói với Tôn giả Channa:
Atha kho āyasmā ca sāriputto āyasmā ca mahācundo yenāyasmā channo tenupasaṅkamiṃsu; upasaṅkamitvā āyasmatā channena saddhiṃ sammodiṃsu. Sammodanīyaṃ kathaṃ sāraṇīyaṃ vītisāretvā ekamantaṃ nisīdiṃsu. Ekamantaṃ nisinno kho āyasmā sāriputto āyasmantaṃ channaṃ etadavoca:

“Này Hiền giả Channa, mong rằng Hiền giả có thể kham nhẫn! Mong rằng Hiền giả có thể chịu đựng! Mong rằng khổ thọ được giảm thiểu không có gia tăng, và sự giảm thiểu được rõ rệt, không có gia tăng!”
“kacci te, āvuso channa, khamanīyaṃ, kacci yāpanīyaṃ? Kacci te dukkhā vedanā paṭikkamanti, no abhikkamanti; paṭikkamosānaṃ paññāyati, no abhikkamo”ti?

Thưa Hiền giả Sāriputta, tôi không có thể kham nhẫn, tôi không có thể chịu đựng. Sự khổ thống của tôi gia tăng, không có giảm thiểu; sự gia tăng rõ rệt, không có giảm thiểu.
“Na me, āvuso sāriputta, khamanīyaṃ na yāpanīyaṃ. Bāḷhā me dukkhā vedanā abhikkamanti, no paṭikkamanti; abhikkamosānaṃ paññāyati, no paṭikkamo.

Thưa Hiền giả Sāriputta, ví như một người lực sĩ chém đầu (một người khác) với một thanh kiếm sắc bén; cũng vậy, Thưa Hiền giả Sāriputta, những ngọn gió kinh khủng thổi lên đau nhói trong đầu tôi.
Seyyathāpi, āvuso sāriputta, balavā puriso tiṇhena sikharena muddhani abhimattheyya; evameva kho me, āvuso sāriputta, adhimattā vātā muddhani ūhananti.

Thưa Hiền giả Sāriputta, tôi không có thể kham nhẫn, tôi không có thể chịu đựng. Những khổ thống của tôi gia tăng, không có giảm thiểu; sự gia tăng rõ rệt, không có giảm thiểu.
Na me, āvuso sāriputta, khamanīyaṃ na yāpanīyaṃ. Bāḷhā me dukkhā vedanā abhikkamanti, no paṭikkamanti; abhikkamosānaṃ paññāyati no paṭikkamo.

Thưa Hiền giả Sāriputta, như một người lực sĩ lấy một dây nịt bằng da cứng quấn tròn quanh đầu rồi xiết chặt; cũng vậy, Thưa Hiền giả Sāriputta, tôi cảm thấy bị đau đầu một cách kinh khủng.
Seyyathāpi, āvuso sāriputta, balavā puriso daḷhena varattakkhaṇḍena sīse sīsaveṭhaṃ dadeyya; evameva kho me, āvuso sāriputta, adhimattā sīse sīsavedanā.

Thưa Hiền giả Sāriputta, tôi không có thể kham nhẫn, tôi không có thể chịu đựng. Những khổ thống của tôi gia tăng, không có giảm thiểu; sự gia tăng rõ rệt, không có giảm thiểu.
Na me, āvuso sāriputta, khamanīyaṃ na yāpanīyaṃ. Bāḷhā me dukkhā vedanā abhikkamanti, no paṭikkamanti; abhikkamosānaṃ paññāyati, no paṭikkamo.

Thưa Hiền giả Sāriputta, như một người đồ tể thiện xảo hay đệ tử người đồ tể cắt ngang bụng với một con dao cắt thịt bò sắc bén; cũng vậy, Thưa Hiền giả Sāriputta, một ngọn gió kinh khủng cắt ngang bụng của tôi.
Seyyathāpi, āvuso sāriputta, dakkho goghātako vā goghātakantevāsī vā tiṇhena govikantanena kucchiṃ parikanteyya; evameva kho me, āvuso sāriputta, adhimattā vātā kucchiṃ parikantanti.

Thưa Hiền giả Sāriputta, tôi không có thể kham nhẫn, tôi không có thể chịu đựng. Những khổ thống của tôi gia tăng, không có giảm thiểu; sự gia tăng rõ rệt, không có giảm thiểu.
Na me, āvuso sāriputta, khamanīyaṃ na yāpanīyaṃ. Bāḷhā me dukkhā vedanā abhikkamanti, no paṭikkamanti; abhikkamosānaṃ paññāyati, no paṭikkamo.

Thưa Hiền giả Sāriputta, ví như hai người lực sĩ, sau khi nắm cánh tay của một người yếu hơn, nướng người ấy, đốt người ấy trên một hố than hừng; cũng vậy, Thưa Hiền giả Sāriputta, một sức nóng kinh khủng khởi lên trong thân tôi.
Seyyathāpi, āvuso sāriputta, dve balavanto purisā dubbalataraṃ purisaṃ nānābāhāsu gahetvā aṅgārakāsuyā santāpeyyuṃ samparitāpeyyuṃ; evameva kho me, āvuso sāriputta, adhimatto kāyasmiṃ ḍāho.

Thưa Hiền giả Sāriputta, tôi không có thể kham nhẫn, tôi không có thể chịu đựng. Sự thống khổ của tôi gia tăng không có giảm thiểu, và sự gia tăng rõ rệt, không có giảm thiểu.
Na me, āvuso sāriputta, khamanīyaṃ na yāpanīyaṃ. Bāḷhā me dukkhā vedanā abhikkamanti, no paṭikkamanti; abhikkamosānaṃ paññāyati, no paṭikkamo.

Thưa Hiền giả Sāriputta, tôi sẽ đem dao (cho tôi). Tôi không còn muốn sống.”
Satthaṃ, āvuso sāriputta, āharissāmi, nāvakaṅkhāmi jīvitan”ti.

“Tôn giả Channa, chớ có đem lại con dao!
“Māyasmā channo satthaṃ āharesi.

Tôn giả Channa, hãy tiếp tục sống! Chúng tôi muốn Tôn giả Channa tiếp tục sống.
Yāpetāyasmā channo. Yāpentaṃ mayaṃ āyasmantaṃ channaṃ icchāma.

Nếu Tôn giả Channa không có các món ăn tốt lành, tôi sẽ đi tìm các món ăn tốt lành cho Tôn giả Channa.
Sace āyasmato channassa natthi sappāyāni bhojanāni, ahaṃ āyasmato channassa sappāyāni bhojanāni pariyesissāmi.

Nếu Tôn giả Channa không có các dược phẩm tốt lành, tôi sẽ đi tìm các dược phẩm tốt lành cho Tôn giả Channa.
Sace āyasmato channassa natthi sappāyāni bhesajjāni, ahaṃ āyasmato channassa sappāyāni bhesajjāni pariyesissāmi.

Nếu Tôn giả Channa không có người thị giả thích đáng, tôi sẽ hầu hạ Tôn giả Channa.
Sace āyasmato channassa natthi patirūpā upaṭṭhākā, ahaṃ āyasmantaṃ channaṃ upaṭṭhahissāmi.

Tôn giả Channa chớ có đem lại con dao!
Māyasmā channo satthaṃ āharesi.

Tôn giả Channa hãy tiếp tục sống! Chúng tôi muốn Tôn giả Channa tiếp tục sống.”
Yāpetāyasmā channo. Yāpentaṃ mayaṃ āyasmantaṃ channaṃ icchāmā”ti.

“Thưa Hiền giả Sāriputta, không phải tôi không có các món ăn tốt lành,
“Napi me, āvuso sāriputta, natthi sappāyāni bhojanāni;

cũng không phải tôi không có các dược phẩm tốt lành.
napi me natthi sappāyāni bhesajjāni;

Cũng không phải tôi không có thị giả thích đáng.
napi me natthi patirūpā upaṭṭhākā;

Thưa Hiền giả Sāriputta, trong một thời gian dài, tôi đã hầu hạ bậc Ðạo Sư, làm cho (bậc Ðạo sư) được đẹp lòng, không phải không được đẹp lòng.
api cāvuso sāriputta, pariciṇṇo me satthā dīgharattaṃ manāpeneva no amanāpena.

Thưa Hiền giả Sāriputta, thật là thích đáng cho người đệ tử hầu hạ bậc Ðạo Sư, làm cho (bậc Ðạo Sư) được đẹp lòng, không phải không được đẹp lòng.
Etañhi, āvuso sāriputta, sāvakassa patirūpaṃ yaṃ satthāraṃ paricareyya manāpeneva no amanāpena.

‘Tỷ-kheo Channa đem lại con dao không có phạm tội’. Thưa Hiền giả Sāriputta, hãy thọ trì như vậy!”
‘Anupavajjaṃ channo bhikkhu satthaṃ āharissatī’ti evametaṃ, āvuso sāriputta, dhārehī”ti.

“Chúng tôi muốn hỏi Tôn giả Channa về một vấn đề đặc biệt, nếu Tôn giả Channa cho chúng tôi được phép đặt câu hỏi”.
“Puccheyyāma mayaṃ āyasmantaṃ channaṃ kañcideva desaṃ, sace āyasmā channo okāsaṃ karoti pañhassa veyyākaraṇāyā”ti.

“Hãy hỏi đi, Hiền giả Sāriputta; sau khi nghe, tôi sẽ biết”.
“Pucchāvuso sāriputta, sutvā vedissāmī”ti.

“Hiền giả Channa, Hiền giả có xem con mắt, nhãn thức và các pháp do mắt nhận thức là: ‘Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi?’
“Cakkhuṃ, āvuso channa, cakkhuviññāṇaṃ cakkhuviññāṇaviññātabbe dhamme ‘etaṃ mama, esohamasmi, eso me attā’ti samanupassasi?

Hiền giả Channa, Hiền giả có xem tai, nhĩ thức…
Sotaṃ, āvuso channa, sotaviññāṇaṃ ...pe...

Hiền giả Channa, Hiền giả có xem mũi, tỷ thức…
ghānaṃ, āvuso channa, ghānaviññāṇaṃ …

Hiền giả Channa, Hiền giả có xem lưỡi, thiệt thức…
jivhaṃ, āvuso channa, jivhāviññāṇaṃ …

Hiền giả Channa, Hiền giả có xem thân, thân thức…
kāyaṃ, āvuso channa, kāyaviññāṇaṃ …

Hiền giả Channa, Hiền giả có xem ý, ý thức và các pháp do ý nhận thức là: ‘Cái này của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi’?”
manaṃ, āvuso channa, manoviññāṇaṃ manoviññāṇaviññātabbe dhamme ‘etaṃ mama, esohamasmi, eso me attā’ti samanupassasī”ti?

“Hiền giả Sāriputta, tôi xem mắt, nhãn thức và các pháp do mắt nhận thức là: ‘Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi’.
“Cakkhuṃ, āvuso sāriputta, cakkhuviññāṇaṃ cakkhuviññāṇaviññātabbe dhamme ‘netaṃ mama, nesohamasmi, na meso attā’ti samanupassāmi.

Hiền giả Sāriputta, tôi xem tai, nhĩ thức…
Sotaṃ, āvuso sāriputta ...pe...

Hiền giả Sāriputta, tôi xem mũi, tỷ thức…
ghānaṃ, āvuso sāriputta …

Hiền giả Sāriputta, tôi xem lưỡi, thiệt thức…
jivhaṃ, āvuso sāriputta …

Hiền giả Sāriputta, tôi xem thân, thân thức…
kāyaṃ, āvuso sāriputta …

Hiền giả Sāriputta, tôi xem ý, ý thức và các pháp do ý nhận thức là: ‘Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi’.”
manaṃ, āvuso sāriputta, manoviññāṇaṃ manoviññāṇaviññātabbe dhamme ‘netaṃ mama, nesohamasmi, na meso attā’ti samanupassāmī”ti.

“Này Hiền giả Channa, Hiền giả đã thấy cái gì, đã chứng tri cái gì trong mắt, trong nhãn thức, trong các pháp được mắt nhận thức mà Hiền giả xem mắt, nhãn thức và các pháp do mắt nhận thức là: ‘Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải là tự ngã của tôi?’
“Cakkhusmiṃ, āvuso channa, cakkhuviññāṇe cakkhuviññāṇaviññātabbesu dhammesu kiṃ disvā kiṃ abhiññāya cakkhuṃ cakkhuviññāṇaṃ cakkhuviññāṇaviññātabbe dhamme ‘netaṃ mama, nesohamasmi, na meso attā’ti samanupassasi?

Hiền giả Channa, Hiền giả đã thấy cái gì, đã chứng tri cái gì trong tai, trong nhĩ thức … trong mũi, trong tỷ thức … trong lưỡi, trong thiệt thức … trong thân, trong thân thức … trong ý, trong ý thức và trong các pháp do ý nhận thức mà Hiền giả xem ý, ý thức và các pháp do ý nhận thức là: ‘Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi’?”
Sotasmiṃ, āvuso channa, sotaviññāṇe … ghānasmiṃ, āvuso channa, ghānaviññāṇe … jivhāya, āvuso channa, jivhāviññāṇe … kāyasmiṃ, āvuso channa, kāyaviññāṇe … manasmiṃ, āvuso channa, manoviññāṇe manoviññāṇaviññātabbesu dhammesu kiṃ disvā kiṃ abhiññāya manaṃ manoviññāṇaṃ manoviññāṇaviññātabbe dhamme ‘netaṃ mama, nesohamasmi, na meso attā’ti samanupassasī”ti?

“Thưa Hiền giả Sāriputta, chính vì tôi thấy sự diệt (nirodha), chứng tri sự diệt trong mắt, trong nhãn thức và trong các pháp do mắt nhận thức, mà tôi xem mắt, nhãn thức, và các pháp do mắt nhận thức là: ‘Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi’.
“Cakkhusmiṃ, āvuso sāriputta, cakkhuviññāṇe cakkhuviññāṇaviññātabbesu dhammesu nirodhaṃ disvā nirodhaṃ abhiññāya cakkhuṃ cakkhuviññāṇaṃ cakkhuviññāṇaviññātabbe dhamme ‘netaṃ mama, nesohamasmi, na meso attā’ti samanupassāmi.

Thưa Hiền giả Sāriputta, chính vì tôi thấy sự diệt, chứng tri sự diệt trong tai, trong nhĩ thức… trong mũi, trong tỷ thức… trong lưỡi, trong thiệt thức… trong thân, trong thân thức… trong ý, trong ý thức và trong các pháp do ý nhận thức mà tôi xem ý, ý thức và các pháp do ý nhận thức là: ‘Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi’.”
Sotasmiṃ, āvuso sāriputta, sotaviññāṇe … ghānasmiṃ, āvuso sāriputta, ghānaviññāṇe … jivhāya, āvuso sāriputta, jivhāviññāṇe … kāyasmiṃ, āvuso sāriputta, kāyaviññāṇe … manasmiṃ, āvuso sāriputta, manoviññāṇe manoviññāṇaviññātabbesu dhammesu nirodhaṃ disvā nirodhaṃ abhiññāya manaṃ manoviññāṇaṃ manoviññāṇaviññātabbe dhamme ‘netaṃ mama, nesohamasmi, na meso attā’ti samanupassāmī”ti.

Khi được nghe nói vậy, Tôn giả Mahācunda nói với Tôn giả Channa:
Evaṃ vutte, āyasmā mahācundo āyasmantaṃ channaṃ etadavoca:

“Do vậy, này Hiền giả Channa, lời dạy này của Thế Tôn phải được thường trực tác ý:
“tasmātiha, āvuso channa, idampi tassa bhagavato sāsanaṃ, niccakappaṃ manasi kātabbaṃ:

‘Ai có chấp trước là có dao động. Ai không chấp trước là không có dao động.
‘nissitassa calitaṃ, anissitassa calitaṃ natthi.

Không có dao động, thời có khinh an;
Calite asati passaddhi,

có khinh an thời không có hy cầu (nati);
passaddhiyā sati nati na hoti.

không có hy cầu thời không có khứ lai;
Natiyā asati āgatigati na hoti.

không có khứ lai thời không có tử sanh;
Āgatigatiyā asati cutūpapāto na hoti.

không có tử sanh thời không có đời này, không có đời sau, không có giữa hai đời.
Cutūpapāte asati nevidha na huraṃ na ubhayamantarena.

Như vậy là sự đoạn tận đau khổ”.
Esevanto dukkhassā’”ti.

Rồi Tôn giả Sāriputta và Tôn giả Mahācunda sau khi giáo giới cho Tôn giả Channa, từ chỗ ngồi đứng dậy và ra đi.
Atha kho āyasmā ca sāriputto āyasmā ca mahācundo āyasmantaṃ channaṃ iminā ovādena ovaditvā uṭṭhāyāsanā pakkamiṃsu.

Rồi Tôn giả Channa, sau khi Tôn giả Sāriputta và Tôn giả Mahācunda ra đi không bao lâu, đem dao lại (cho mình).
Atha kho āyasmā channo acirapakkante āyasmante ca sāriputte āyasmante ca mahācunde satthaṃ āharesi.

Rồi Tôn giả Sāriputta đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả Sāriputta bạch Thế Tôn:
Atha kho āyasmā sāriputto yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho āyasmā sāriputto bhagavantaṃ etadavoca:

“Bạch Thế Tôn, Tôn giả Channa đã đem dao lại (cho mình), sanh xứ của Tôn giả ấy là gì? Ðời sống tương lai là gì?”
“āyasmatā, bhante, channena satthaṃ āharitaṃ. Tassa kā gati, ko abhisamparāyo”ti?

“Này Sāriputta, có phải trước mặt Ông, Tỷ-kheo Channa đã tuyên bố sự không phạm tội?”
“Nanu te, sāriputta, channena bhikkhunā sammukhāyeva anupavajjatā byākatā”ti?

“Bạch Thế Tôn, có một ngôi làng của dòng họ Vajji (Bạt-kỳ) tên là Pubbajira.
“Atthi, bhante, pubbajiraṃ nāma vajjigāmo.

Tại đấy, có những gia đình thân hữu, những gia đình hộ trì Tôn giả Channa, những gia đình cần được viếng thăm”.
Tatthāyasmato channassa mittakulāni suhajjakulāni upavajjakulānī”ti.

“Này Sāriputta, có những gia đình ấy là những gia đình thân hữu, những gia đình hộ trì Tỷ-kheo Channa, những gia đình cần được viếng thăm.
“Honti hete, sāriputta, channassa bhikkhuno mittakulāni suhajjakulāni upavajjakulāni.

Này Sāriputta, cho đến nay, Ta không nói rằng Tỷ-kheo Channa có phạm tội.
Nāhaṃ, sāriputta, ettāvatā ‘saupavajjo’ti vadāmi.

Này Sāriputta, ai quăng bỏ thân này, và chấp thủ thân khác, Ta nói rằng người ấy có phạm tội.
Yo kho, sāriputta, imañca kāyaṃ nikkhipati aññañca kāyaṃ upādiyati tamahaṃ ‘saupavajjo’ti vadāmi.

Tỷ-kheo Channa không có (chấp thủ) như vậy.
Taṃ channassa bhikkhuno natthi.

‘Tỷ-kheo Channa đem con dao lại (cho mình), không có phạm tội’.”
‘Anupavajjo channo bhikkhu satthaṃ āharesī’ti evametaṃ, sāriputta, dhārehī”ti.

Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Tôn giả Sāriputta hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy.
Idamavoca bhagavā. Attamano āyasmā sāriputto bhagavato bhāsitaṃ abhinandīti.

Channovādasuttaṃ niṭṭhitaṃ dutiyaṃ.


Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt