Trung Bộ 35
Majjhima Nikāya 35
Tiểu Kinh Saccaka
Cūḷasaccakasutta
Như vầy tôi nghe.
Evaṃ me sutaṃ—
Một thời Thế Tôn ở tại Vesālī, rừng Ðại Lâm, tại giảng đường Trùng Các.
ekaṃ samayaṃ bhagavā vesāliyaṃ viharati mahāvane kūṭāgārasālāyaṃ.
Lúc bấy giờ Saccaka con của Nigaṇṭha ở tại Vesālī tánh ưa luận chiến, biện luận thiện xảo, được số đông tôn kính.
Tena kho pana samayena saccako nigaṇṭhaputto vesāliyaṃ paṭivasati bhassappavādako paṇḍitavādo sādhusammato bahujanassa.
Vị này thường tuyên bố cho hội chúng ở Vesālī:
So vesāliyaṃ parisati evaṃ vācaṃ bhāsati:
“Ta không thấy một Sa-môn hay một Bà-la-môn nào, là vị Hội chủ, là vị Giáo trưởng, vị Sư trưởng Giáo hội, dầu tự cho là bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, khi đối thoại với ta, không ai là không run sợ, không hoảng sợ, không khiếp sợ, không ai là không toát mồ hôi nách.
“nāhaṃ taṃ passāmi samaṇaṃ vā brāhmaṇaṃ vā, saṅghiṃ gaṇiṃ gaṇācariyaṃ, api arahantaṃ sammāsambuddhaṃ paṭijānamānaṃ, yo mayā vādena vādaṃ samāraddho na saṅkampeyya na sampakampeyya na sampavedheyya, yassa na kacchehi sedā mucceyyuṃ.
Dầu ta có đối thoại với một cột trụ vô tình, cột trụ ấy khi đối thoại với ta cũng run sợ, cũng hoảng sợ, cũng khiếp sợ”.
Thūṇaṃ cepāhaṃ acetanaṃ vādena vādaṃ samārabheyyaṃ, sāpi mayā vādena vādaṃ samāraddhā saṅkampeyya sampakampeyya sampavedheyya.
huống nữa là một người thường”
Ko pana vādo manussabhūtassā”ti?
Rồi Tôn giả Assaji vào buổi sáng đắp y, cầm bát vào Vesālī để khất thực.
Atha kho āyasmā assaji pubbaṇhasamayaṃ nivāsetvā pattacīvaramādāya vesāliṃ piṇḍāya pāvisi.
Saccaka con của Nigaṇṭha, thường hay ngao du thiên hạ, thấy Tôn giả Assaji từ xa đi lại. Sau khi thấy, Saccaka con của Nigaṇṭha liền đến gần Tôn giả Assaji, nói lên những lời hỏi thăm, chào đón, xã giao rồi đứng một bên.
Addasā kho saccako nigaṇṭhaputto vesāliyaṃ jaṅghāvihāraṃ anucaṅkamamāno anuvicaramāno āyasmantaṃ assajiṃ dūratova āgacchantaṃ. Disvāna yenāyasmā assaji tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā āyasmatā assajinā saddhiṃ sammodi. Sammodanīyaṃ kathaṃ sāraṇīyaṃ vītisāretvā ekamantaṃ aṭṭhāsi.
Sau khi đứng một bên, Saccaka con của Nigaṇṭha nói với Tôn giả Assaji:
Ekamantaṃ ṭhito kho saccako nigaṇṭhaputto āyasmantaṃ assajiṃ etadavoca:
“Này Tôn giả Assaji, Sa-môn Gotama huấn luyện đệ tử như thế nào? Và có những bộ môn nào mà phần lớn Sa-môn Gotama giảng dạy được dành cho đệ tử?”
“kathaṃ pana, bho assaji, samaṇo gotamo sāvake vineti, kathaṃbhāgā ca pana samaṇassa gotamassa sāvakesu anusāsanī bahulā pavattatī”ti?
“Này Aggivessana, như thế này, Thế Tôn huấn luyện đệ tử. Với những bộ môn như thế này, phần lớn Sa-môn Gotama giảng dạy được dành cho đệ tử:
“Evaṃ kho, aggivessana, bhagavā sāvake vineti, evaṃbhāgā ca pana bhagavato sāvakesu anusāsanī bahulā pavattati:
“Này các Tỷ-kheo, sắc là vô thường, thọ là vô thường, tưởng là vô thường, hành là vô thường, thức là vô thường.
‘rūpaṃ, bhikkhave, aniccaṃ, vedanā aniccā, saññā aniccā, saṅkhārā aniccā, viññāṇaṃ aniccaṃ.
Này các Tỷ-kheo, sắc là vô ngã, thọ là vô ngã, tưởng là vô ngã, hành là vô ngã, thức là vô ngã.
Rūpaṃ, bhikkhave, anattā, vedanā anattā, saññā anattā, saṅkhārā anattā, viññāṇaṃ anattā.
Tất cả hành là vô thường, tất cả pháp là vô ngã”.
Sabbe saṅkhārā aniccā, sabbe dhammā anattā’ti.
Như vậy này Aggivessana, Thế Tôn huấn luyện các đệ tử. Như vậy là các bộ môn mà phần lớn Thế Tôn giảng dạy được dành cho đệ tử.”
Evaṃ kho, aggivessana, bhagavā sāvake vineti, evaṃbhāgā ca pana bhagavato sāvakesu anusāsanī bahulā pavattatī”ti.
“Này Tôn giả Assaji, thật sự chúng tôi đã thất vọng khi nghe Sa-môn Gotama thuyết giảng như vậy.
“Dussutaṃ vata, bho assaji, assumha ye mayaṃ evaṃvādiṃ samaṇaṃ gotamaṃ assumha.
Rất có thể chúng tôi sẽ gặp Tôn giả Gotama một thời nào đó và tại một chỗ nào đó. Rất có thể sẽ có một cuộc thảo luận. Rất có thể chúng tôi sẽ đoạn trừ ác tà kiến ấy.”
Appeva nāma mayaṃ kadāci karahaci tena bhotā gotamena saddhiṃ samāgaccheyyāma, appeva nāma siyā kocideva kathāsallāpo, appeva nāma tasmā pāpakā diṭṭhigatā viveceyyāmā”ti.
Lúc bấy giờ, có khoảng độ năm trăm vị Licchavī tập hợp tai giảng đường vì một vài công vụ.
Tena kho pana samayena pañcamattāni Licchavīsatāni santhāgāre sannipatitāni honti kenacideva karaṇīyena.
Rồi Saccaka con của Nigaṇṭha đến chỗ các Licchavī ấy, sau khi đến, liền nói các vị ấy như sau:
Atha kho saccako nigaṇṭhaputto yena te licchavī tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā te licchavī etadavoca:
“Hãy đến, các Tôn giả Licchavī; hãy đến các Tôn giả Licchavī. Hôm nay sẽ có cuộc đàm luận giữa Sa-môn Gotama với ta.
“abhikkamantu bhonto licchavī, abhikkamantu bhonto licchavī, ajja me samaṇena gotamena saddhiṃ kathāsallāpo bhavissati.
Nếu Sa-môn Gotama đứng đối thoại với ta như Tỷ-kheo Assaji, một vị đệ tử danh tiếng của ông ta đã làm, thì như một lực sĩ tay nắm chặt lông một con cừu có lông dài, có thể kéo tới, giật lui, vần quanh;
Sace me samaṇo gotamo tathā patiṭṭhissati yathā ca me ñātaññatarena sāvakena assajinā nāma bhikkhunā patiṭṭhitaṃ, seyyathāpi nāma balavā puriso dīghalomikaṃ eḷakaṃ lomesu gahetvā ākaḍḍheyya parikaḍḍheyya samparikaḍḍheyya;
cũng vậy, ta dùng lời nói, kéo tới, giật lui, vần quanh Sa-môn Gotama.
evamevāhaṃ samaṇaṃ gotamaṃ vādena vādaṃ ākaḍḍhissāmi parikaḍḍhissāmi samparikaḍḍhissāmi.
Cũng như một người lực sĩ nấu rượu, sau khi nhận chìm một thùng rượu lớn xuống hồ nước sâu, nắm một góc thùng có thể kéo tới, giật lui, vần quanh;
Seyyathāpi nāma balavā soṇḍikākammakāro mahantaṃ soṇḍikākiḷañjaṃ gambhīre udakarahade pakkhipitvā kaṇṇe gahetvā ākaḍḍheyya parikaḍḍheyya samparikaḍḍheyya;
cũng vậy, ta dùng lời nói, kéo tới, giật lui, vần quanh Sa-môn Gotama.
evamevāhaṃ samaṇaṃ gotamaṃ vādena vādaṃ ākaḍḍhissāmi parikaḍḍhissāmi samparikaḍḍhissāmi.
Và cũng như một lực sĩ nghiện rượu, sống phóng đãng, sau khi nắm góc một cái sàng, lắc qua lắc lại, lắc xoay quanh.
Seyyathāpi nāma balavā soṇḍikādhutto vālaṃ kaṇṇe gahetvā odhuneyya niddhuneyya nipphoṭeyya;
Cũng vậy, ta sẽ dùng lời nói, lắc qua lắc lại, lắc xoay quanh Sa-môn Gotama.
evamevāhaṃ samaṇaṃ gotamaṃ vādena vādaṃ odhunissāmi niddhunissāmi nipphoṭessāmi.
Và cũng như một con voi lớn sáu mươi tuổi, sau khi lặn xuống một hồ nước sâu, lại chơi trò phun nước;
Seyyathāpi nāma kuñjaro saṭṭhihāyano gambhīraṃ pokkharaṇiṃ ogāhetvā sāṇadhovikaṃ nāma kīḷitajātaṃ kīḷati;
cũng vậy, ta nghĩ ta sẽ chơi trò chơi phun nước với Sa-môn Gotama.
evamevāhaṃ samaṇaṃ gotamaṃ sāṇadhovikaṃ maññe kīḷitajātaṃ kīḷissāmi.
Hãy đến, các Tôn giả Licchavī. Hãy đến các Tôn giả Licchavī. Hôm nay sẽ có cuộc đàm luận giữa Sa-môn Gotama với ta.”
Abhikkamantu bhonto licchavī, abhikkamantu bhonto licchavī, ajja me samaṇena gotamena saddhiṃ kathāsallāpo bhavissatī”ti.
Một số Licchavī nói như sau:
Tatrekacce licchavī evamāhaṃsu:
“Làm sao Sa-môn Gotama có thể luận thắng Saccaka con của Nigaṇṭha? Saccaka con của Nigaṇṭha sẽ luận thắng Sa-môn Gotama?”
“kiṃ samaṇo gotamo saccakassa nigaṇṭhaputtassa vādaṃ āropessati, atha kho saccako nigaṇṭhaputto samaṇassa gotamassa vādaṃ āropessatī”ti?
Một số Licchavī lại nói như sau:
Ekacce licchavī evamāhaṃsu:
“Làm sao chỉ là Saccaka con của Nigaṇṭha lại có thể luận thắng Thế Tôn? Thế Tôn sẽ luận thắng Saccaka con của Nigaṇṭha.”
“kiṃ so bhavamāno saccako nigaṇṭhaputto yo bhagavato vādaṃ āropessati, atha kho bhagavā saccakassa nigaṇṭhaputtassa vādaṃ āropessatī”ti?
Rồi Saccaka con của Nigaṇṭha với khoảng năm trăm Licchavī vây quanh, cùng đi đến Ðại Lâm, giảng đường Trùng Các.
Atha kho saccako nigaṇṭhaputto pañcamattehi Licchavīsatehi parivuto yena mahāvanaṃ kūṭāgārasālā tenupasaṅkami.
Lúc bấy giờ một số đông các Tỷ-kheo đang đi qua lại giữa trời.
Tena kho pana samayena sambahulā bhikkhū abbhokāse caṅkamanti.
Saccaka con của Nigaṇṭha đến các Tỷ-kheo, sau khi đến, liền nói với các vị ấy:
Atha kho saccako nigaṇṭhaputto yena te bhikkhū tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā te bhikkhū etadavoca:
“Chư Tôn giả, nay Tôn giả Gotama ở đâu?
“kahaṃ nu kho, bho, etarahi so bhavaṃ gotamo viharati?
Chúng tôi muốn yết kiến Tôn giả Gotama.”
Dassanakāmā hi mayaṃ taṃ bhavantaṃ gotaman”ti.
“Này Aggivessana, Thế Tôn sau khi đi sâu vào rừng Ðại Lâm, đang ngồi dưới một gốc cây để nghỉ trưa.”
“Esa, aggivessana, bhagavā mahāvanaṃ ajjhogāhetvā aññatarasmiṃ rukkhamūle divāvihāraṃ nisinno”ti.
Rồi Saccaka con của Nigaṇṭha cùng với đại chúng Licchavī, sau khi đi sâu vào rừng Ðại Lâm, đến tại chỗ Thế Tôn.
Atha kho saccako nigaṇṭhaputto mahatiyā Licchavīparisāya saddhiṃ mahāvanaṃ ajjhogāhetvā yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavatā saddhiṃ sammodi.
Sau khi đến Saccaka con của Nigaṇṭha nói lên với Thế Tôn những lời chúc tụng, hỏi thăm xã giao rồi ngồi xuống một bên.
Sammodanīyaṃ kathaṃ sāraṇīyaṃ vītisāretvā ekamantaṃ nisīdi.
Một số Licchavī đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên; một số Licchavī nói lên với Thế Tôn những lời chúc tụng, hỏi thăm xã giao rồi ngồi xuống một bên; một số Licchavī chấp tay vái Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên; một số Licchavī xưng tên họ của mình rồi ngồi xuống một bên; một số Licchavī im lặng ngồi xuống một bên.
Tepi kho licchavī appekacce bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdiṃsu, appekacce bhagavatā saddhiṃ sammodiṃsu, sammodanīyaṃ kathaṃ sāraṇīyaṃ vītisāretvā ekamantaṃ nisīdiṃsu. Appekacce yena bhagavā tenañjaliṃ paṇāmetvā ekamantaṃ nisīdiṃsu, appekacce bhagavato santike nāmagottaṃ sāvetvā ekamantaṃ nisīdiṃsu, appekacce tuṇhībhūtā ekamantaṃ nisīdiṃsu.
Saccaka con của Nigaṇṭha sau khi ngồi xuống một bên nói với Thế Tôn:
Ekamantaṃ nisinno kho saccako nigaṇṭhaputto bhagavantaṃ etadavoca:
“Tôi muốn hỏi Tôn giả Gotama một vấn đề, nếu Tôn giả Gotama cho phép tôi được hỏi.”
“puccheyyāhaṃ bhavantaṃ gotamaṃ kiñcideva desaṃ, sace me bhavaṃ gotamo okāsaṃ karoti pañhassa veyyākaraṇāyā”ti.
“Này Aggivessana, hãy hỏi như Ông muốn.”
“Puccha, aggivessana, yadākaṅkhasī”ti.
“Tôn giả Gotama huấn luyện đệ tử như thế nào? Những bộ môn nào mà phần lớn Sa-môn Gotama giảng dạy được dành cho đệ tử?”
“Kathaṃ pana bhavaṃ gotamo sāvake vineti, kathaṃbhāgā ca pana bhoto gotamassa sāvakesu anusāsanī bahulā pavattatī”ti?
“Này Aggivessana, như thế này Ta huấn luyện đệ tử. Với những bộ môn này, phần lớn Ta giảng dạy được dành cho đệ tử:
“Evaṃ kho ahaṃ, aggivessana, sāvake vinemi, evaṃbhāgā ca pana me sāvakesu anusāsanī bahulā pavattati:
“Này các Tỷ-kheo, sắc là vô thường, thọ là vô thường, tưởng là vô thường, hành là vô thường, thức là vô thường.
‘rūpaṃ, bhikkhave, aniccaṃ, vedanā aniccā, saññā aniccā, saṅkhārā aniccā, viññāṇaṃ aniccaṃ.
Này các Tỷ-kheo, sắc là vô ngã, thọ là vô ngã, tưởng là vô ngã, hành là vô ngã, thức là vô ngã.
Rūpaṃ, bhikkhave, anattā, vedanā anattā, saññā anattā, saṅkhārā anattā, viññāṇaṃ anattā.
Tất cả hành là vô thường, tất cả pháp là vô ngã”.
Sabbe saṅkhārā aniccā, sabbe dhammā anattā’ti.
Như vậy, này Aggivessana, Ta huấn luyện các đệ tử. Các bộ môn như vậy, phần lớn ta giảng dạy được dành cho đệ tử.”
Evaṃ kho ahaṃ, aggivessana, sāvake vinemi, evaṃbhāgā ca pana me sāvakesu anusāsanī bahulā pavattatī”ti.
“Này Tôn giả Gotama, tôi có một ví dụ.”
“Upamā maṃ, bho gotama, paṭibhātī”ti.
Thế Tôn nói: “Này Aggivessana, hãy nói lên ví dụ ấy.”
“Paṭibhātu taṃ, aggivessanā”ti bhagavā avoca.
“Như các hột giống, các cây cỏ này được lớn lên, được trưởng thành, được hưng thịnh là vì tất cả chúng đều y cứ vào đất, nương tựa vào đất.
“Seyyathāpi, bho gotama, ye kecime bījagāmabhūtagāmā vuddhiṃ virūḷhiṃ vepullaṃ āpajjanti, sabbe te pathaviṃ nissāya pathaviyaṃ patiṭṭhāya.
Nhờ vậy các hột giống, các cây cỏ này được lớn lên, được trưởng thành, được hưng thịnh.
Evamete bījagāmabhūtagāmā vuddhiṃ virūḷhiṃ vepullaṃ āpajjanti.
Tôn giả Gotama, như các công nghiệp nặng nhọc này được tạo tác, tất cả chúng đều y cứ vào đất, nương tựa vào đất.
Seyyathāpi vā pana, bho gotama, ye kecime balakaraṇīyā kammantā karīyanti, sabbe te pathaviṃ nissāya pathaviyaṃ patiṭṭhāya.
Nhờ vậy, các công nghiệp nặng nhọc này được tạo tác.
Evamete balakaraṇīyā kammantā karīyanti.
Cũng vậy, này Tôn giả Gotama, như người này mà tự ngã là sắc, nhờ nương tựa sắc làm thiện sự hay ác sự; như người này mà tự ngã là thọ, nhờ nương tựa thọ làm thiện sự hay ác sự; như người này mà tự ngã là tưởng, nhờ nương tựa tưởng làm thiện sự hay ác sự; như người này mà tự ngã là các hành, nhờ nương tựa các hành làm thiện sự hay ác sự; như người này mà tự ngã là thức, nhờ nương tựa thức làm thiện sự hay ác sự.”
Evameva kho, bho gotama, rūpattāyaṃ purisapuggalo rūpe patiṭṭhāya puññaṃ vā apuññaṃ vā pasavati, vedanattāyaṃ purisapuggalo vedanāyaṃ patiṭṭhāya puññaṃ vā apuññaṃ vā pasavati, saññattāyaṃ purisapuggalo saññāyaṃ patiṭṭhāya puññaṃ vā apuññaṃ vā pasavati, saṅkhārattāyaṃ purisapuggalo saṅkhāresu patiṭṭhāya puññaṃ vā apuññaṃ vā pasavati, viññāṇattāyaṃ purisapuggalo viññāṇe patiṭṭhāya puññaṃ vā apuññaṃ vā pasavatī”ti.
“Này Aggivessana, như vậy có phải ông nói:
“Nanu tvaṃ, aggivessana, evaṃ vadesi:
“Sắc là tự ngã của ta, thọ là tự ngã của ta, tưởng là tự ngã của ta, hành là tự ngã của ta, thức là tự ngã của ta”?
‘rūpaṃ me attā, vedanā me attā, saññā me attā, saṅkhārā me attā, viññāṇaṃ me attā’”ti?
“Tôn giả Gotama, như vậy tôi nói:
“Ahañhi, bho gotama, evaṃ vadāmi:
“Sắc là tự ngã của ta, thọ là tự ngã của ta, tưởng là tự ngã của ta, hành là tự ngã của ta, thức là tự ngã của ta”. Và như đại chúng này cũng vậy.
‘rūpaṃ me attā, vedanā me attā, saññā me attā, saṅkhārā me attā, viññāṇaṃ me attā’ti, ayañca mahatī janatā”ti.
“Này Aggivessana, đại chúng này có quan hệ gì với Ông?
“Kiñhi te, aggivessana, mahatī janatā karissati?
Này Aggivessana, hãy giải thích lời nói của Ông.”
Iṅgha tvaṃ, aggivessana, sakaññeva vādaṃ nibbeṭhehī”ti.
“Tôn giả Gotama, như vậy tôi nói:
“Ahañhi, bho gotama, evaṃ vadāmi:
“Sắc là tự ngã của ta, thọ là tự ngã của ta, tưởng là tự ngã của ta, hành là tự ngã của ta, thức là tự ngã của ta”.
‘rūpaṃ me attā, vedanā me attā, saññā me attā, saṅkhārā me attā, viññāṇaṃ me attā’”ti.
“Này Aggivessana, Ta sẽ hỏi Ông trở lại về vấn đề này. Ông có thể trả lời nếu Ông muốn.
“Tena hi, aggivessana, taññevettha paṭipucchissāmi, yathā te khameyya tathā naṃ byākareyyāsi.
Này Aggivessana, Ông nghĩ thế nào?
Taṃ kiṃ maññasi, aggivessana,
Một vị vua Sát-đế-lị đã làm lễ quán đảnh, như vua Pasenadi nước Kosala, vua Ajatasattu, con bà Vedehi nước Magadha, vua này có quyền hành trong quốc gia của mình, muốn giết những ai đáng bị giết, muốn tước đoạt những ai đáng bị tước đoạt, muốn tẩn xuất những ai đáng bị tẩn xuất không?
vatteyya rañño khattiyassa muddhāvasittassa sakasmiṃ vijite vaso—ghātetāyaṃ vā ghātetuṃ, jāpetāyaṃ vā jāpetuṃ, pabbājetāyaṃ vā pabbājetuṃ, seyyathāpi rañño pasenadissa kosalassa, seyyathāpi vā pana rañño māgadhassa ajātasattussa vedehiputtassā”ti?
“Tôn giả Gotama, một vua Sát-đế-lị đã làm lễ quán đảnh, như vua Pasenadi nước Kosala, vua Ajatasattu, con bà Vedehi nước Magadha, vua này có quyền hành trong quốc gia của mình, muốn giết những ai đáng bị giết, muốn tước đoạt những ai đáng bị tước đoạt, muốn tẩn xuất những ai đáng bị tẩn xuất.
“Vatteyya, bho gotama, rañño khattiyassa muddhāvasittassa sakasmiṃ vijite vaso—ghātetāyaṃ vā ghātetuṃ, jāpetāyaṃ vā jāpetuṃ, pabbājetāyaṃ vā pabbājetuṃ, seyyathāpi rañño pasenadissa kosalassa, seyyathāpi vā pana rañño māgadhassa ajātasattussa vedehiputtassa.
Này Tôn giả Gotama, cho đến các giáo đoàn, các đoàn thể,
Imesampi hi, bho gotama, saṅghānaṃ gaṇānaṃ—
Cũng như: các Vajji, các Malla,
Seyyathidaṃ—vajjīnaṃ mallānaṃ—
vẫn có quyền hành trong quốc gia của mình,
vattati sakasmiṃ vijite vaso—
muốn giết những ai đáng bị giết, muốn tước đoạt những ai đáng bị tước đoạt, muốn tẩn xuất những ai đáng bị tẩn xuất,
ghātetāyaṃ vā ghātetuṃ, jāpetāyaṃ vā jāpetuṃ, pabbājetāyaṃ vā pabbājetuṃ.
còn nói gì một vua Sát-đế-lị đã làm lễ quán đảnh, như vua Pasenadi nước Kosala, vua Ajatasattu, con bà Vedehi nước Magadha.
Kiṃ pana rañño khattiyassa muddhāvasittassa, seyyathāpi rañño pasenadissa kosalassa, seyyathāpi vā pana rañño māgadhassa ajātasattussa vedehiputtassa?
Này Tôn giả Gotama, vị ấy có quyền hành ấy và xứng đáng có quyền hành ấy.”
Vatteyya, bho gotama, vattituñca marahatī”ti.
“Này Aggivessana, Ông nghĩ thế nào?
“Taṃ kiṃ maññasi, aggivessana,
Như Ông nói:
yaṃ tvaṃ evaṃ vadesi:
“Sắc là tự ngã của ta”, Ông có quyền hành gì đối với sắc ấy và có nói được rằng:
‘rūpaṃ me attā’ti, vattati te tasmiṃ rūpe vaso—
“Sắc của tôi như thế này, sắc của tôi không phải như thế này” không?
evaṃ me rūpaṃ hotu, evaṃ me rūpaṃ mā ahosī”ti?
Ðược nói vậy Saccaka con của Nigaṇṭha giữ im lặng.
Evaṃ vutte, saccako nigaṇṭhaputto tuṇhī ahosi.
Lần thứ hai, Thế Tôn nói với Saccaka con của Nigaṇṭha:
Dutiyampi kho bhagavā saccakaṃ nigaṇṭhaputtaṃ etadavoca:
Này Aggivessana, Ông nghĩ thế nào? Như Ông nói:
“taṃ kiṃ maññasi, aggivessana, yaṃ tvaṃ evaṃ vadesi:
“Sắc là tự ngã của ta”, Ông có quyền hành gì đối với sắc ấy và có nói được rằng:
‘rūpaṃ me attā’ti, vattati te tasmiṃ rūpe vaso—
“Sắc của tôi phải như thế này, sắc của tôi không phải như thế này” không?
evaṃ me rūpaṃ hotu, evaṃ me rūpaṃ mā ahosī”ti?
Lần thứ hai, Saccaka con của Nigaṇṭha vẫn giữ im lặng.
Dutiyampi kho saccako nigaṇṭhaputto tuṇhī ahosi.
Rồi Thế Tôn nói với Saccaka con của Nigaṇṭha:
Atha kho bhagavā saccakaṃ nigaṇṭhaputtaṃ etadavoca:
“Này Aggivessana, nay Ông phải trả lời. Nay không phải lúc Ông giữ im lặng nữa.
“byākarohi dāni, aggivessana, na dāni te tuṇhībhāvassa kālo.
Này Aggivessana, ai được Như Lai hỏi đến lần thứ ba một câu hỏi hợp lý mà không trả lời, thời đầu của người ấy sẽ bị bể ra làm bảy mảnh tại chỗ.”
Yo koci, aggivessana tathāgatena yāvatatiyaṃ sahadhammikaṃ pañhaṃ puṭṭho na byākaroti, etthevassa sattadhā muddhā phalatī”ti.
Lúc bấy giờ thần Dạ xoa Vajirapāṇī (Kim Cang Thủ) đang cầm một chùy sắt to lớn, cháy đỏ, sáng chói, đứng trên không trên đầu Saccaka con của Nigaṇṭha với ý định:
Tena kho pana samayena vajirapāṇi yakkho āyasaṃ vajiraṃ ādāya ādittaṃ sampajjalitaṃ sajotibhūtaṃ saccakassa nigaṇṭhaputtassa uparivehāsaṃ ṭhito hoti:
“Nếu Thế Tôn hỏi đến câu hỏi thứ ba, một câu hỏi hợp lý mà Saccaka con của Nigaṇṭha không trả lời, thì ta sẽ đánh bể đầu nó ra làm bảy mảnh”.
“sacāyaṃ saccako nigaṇṭhaputto bhagavatā yāvatatiyaṃ sahadhammikaṃ pañhaṃ puṭṭho na byākarissati etthevassa sattadhā muddhaṃ phālessāmī”ti.
Chỉ có Thế Tôn và Saccaka con của Nigaṇṭha mới thấy thần Dạ xoa Vajirapāṇī.
Taṃ kho pana vajirapāṇiṃ yakkhaṃ bhagavā ceva passati saccako ca nigaṇṭhaputto.
Saccaka con của Nigaṇṭha sợ hãi, hoảng hốt, lông tóc dựng, ngược, chỉ tìm thấy sự che chở nơi Thế Tôn, chỉ tìm thấy sự an ổn nơi Thế Tôn, chỉ tìm thấy sự nương tựa nơi Thế Tôn, liền bạch Thế Tôn:
Atha kho saccako nigaṇṭhaputto bhīto saṃviggo lomahaṭṭhajāto bhagavantaṃyeva tāṇaṃ gavesī bhagavantaṃyeva leṇaṃ gavesī bhagavantaṃyeva saraṇaṃ gavesī bhagavantaṃ etadavoca:
“Tôn giả Gotama hãy hỏi tôi, tôi sẽ trả lời.”
“pucchatu maṃ bhavaṃ gotamo, byākarissāmī”ti.
“Này Aggivessana, Ông nghĩ thế nào?
“Taṃ kiṃ maññasi, aggivessana,
Như Ông nói:
yaṃ tvaṃ evaṃ vadesi:
“Sắc là tự ngã của ta”, thì Ông có quyền hành gì đối với sắc ấy và có nói được rằng:
‘rūpaṃ me attā’ti, vattati te tasmiṃ rūpe vaso—
“Sắc của tôi phải như thế này, sắc của tôi không phải như thế này” không?
evaṃ me rūpaṃ hotu, evaṃ me rūpaṃ mā ahosī”ti?
“Thưa không, Tôn giả Gotama.”
“No hidaṃ, bho gotama”.
“Hãy suy nghiệm kỹ, này Aggivessana.
“Manasi karohi, aggivessana;
Sau khi suy nghiệm kỹ, này Aggivessana, Ông hãy trả lời.
manasi karitvā kho, aggivessana, byākarohi.
Lời nói cuối của Ông không phù hợp lời nói đầu của Ông, lời nói đầu của Ông không phù hợp lời nói cuối của Ông.
Na kho te sandhiyati purimena vā pacchimaṃ pacchimena vā purimaṃ.
Này Aggivessana, Ông nghĩ thế nào?
Taṃ kiṃ maññasi, aggivessana,
Như Ông nói:
yaṃ tvaṃ evaṃ vadesi:
“Thọ là tự ngã của ta”, Ông có quyền hành gì đối với thọ ấy và có nói được, rằng:
‘vedanā me attā’ti, vattati te tissaṃ vedanāyaṃ vaso—
“Thọ của tôi phải như thế này, thọ của tôi không phải như thế này” không?
evaṃ me vedanā hotu, evaṃ me vedanā mā ahosī”ti?
“Thưa không, Tôn giả Gotama.”
“No hidaṃ, bho gotama”.
“Hãy suy nghiệm kỹ, này Aggivessana.
“Manasi karohi, aggivessana;
Sau khi suy nghiệm kỹ, này Aggivessana, Ông hãy trả lời.
manasi karitvā kho, aggivessana, byākarohi.
Lời nói cuối của Ông không phù hợp lời nói đầu của Ông, lời nói đầu của Ông không phù hợp lời nói cuối của Ông.
Na kho te sandhiyati purimena vā pacchimaṃ, pacchimena vā purimaṃ.
Này Aggivessana, Ông nghĩ thế nào?
Taṃ kiṃ maññasi, aggivessana,
Như Ông nói:
yaṃ tvaṃ evaṃ vadesi:
“Tưởng là tự ngã của ta”, Ông có quyền hành gì đối với tưởng ấy và có nói được rằng:
‘saññā me attā’ti, vattati te tissaṃ saññāyaṃ vaso—
“Tưởng của tôi phải như thế này, tưởng của tôi không phải như thế này” không?
evaṃ me saññā hotu, evaṃ me saññā mā ahosī”ti?
“Thưa không, Tôn giả Gotama.”
“No hidaṃ, bho gotama”.
“Hãy suy nghiệm kỹ, này Aggivessana.
“Manasi karohi, aggivessana;
Sau khi suy nghiệm kỹ, này Aggivessana, Ông hãy trả lời.
manasi karitvā kho, aggivessana, byākarohi.
Lời nói cuối của Ông không phù hợp lời nói đầu của Ông, lời nói đầu của Ông không phù hợp lời nói cuối của Ông.
Na kho te sandhiyati purimena vā pacchimaṃ, pacchimena vā purimaṃ.
Này Aggivessana, Ông nghĩ thế nào?
Taṃ kiṃ maññasi, aggivessana,
Như Ông nói:
yaṃ tvaṃ evaṃ vadesi:
“Các hành là tự ngã của ta”, Ông quyền hành gì đối với tự ngã ấy và có nói được rằng:
‘saṅkhārā me attā’ti, vattati te tesu saṅkhāresu vaso—
“Các hành của tôi phải như thế này, các hành của tôi không phải như thế này” không?
evaṃ me saṅkhārā hontu, evaṃ me saṅkhārā mā ahesun”ti?
“Thưa không, Tôn giả Gotama.”
“No hidaṃ, bho gotama”.
“Hãy suy nghiệm kỹ, này Aggivessana.
“Manasi karohi, aggivessana;
Sau khi suy nghiệm kỹ, này Aggivessana, Ông hãy trả lời.
manasi karitvā kho, aggivessana, byākarohi.
Lời nói cuối của Ông không phù hợp lời nói đầu của Ông, lời nói đầu của Ông không phù hợp lời nói cuối của Ông.
Na kho te sandhiyati purimena vā pacchimaṃ, pacchimena vā purimaṃ.
Này Aggivessana, Ông nghĩ thế nào?
Taṃ kiṃ maññasi, aggivessana,
Như Ông nói:
yaṃ tvaṃ evaṃ vadesi:
“Thức là tự ngã của ta”, Ông quyền hành gì đối với tự ngã ấy và có nói được rằng:
‘viññāṇaṃ me attā’ti, vattati te tasmiṃ viññāṇe vaso—
“Thức của tôi phải như thế này, thức của tôi không phải như thế này” không?
evaṃ me viññāṇaṃ hotu, evaṃ me viññāṇaṃ mā ahosī”ti?
“Thưa không, Tôn giả Gotama.”
“No hidaṃ, bho gotama”.
“Hãy suy nghiệm kỹ, này Aggivessana.
“Manasi karohi, aggivessana;
Sau khi suy nghiệm kỹ, này Aggivessana, Ông hãy trả lời.
manasi karitvā kho, aggivessana, byākarohi.
Lời nói cuối của Ông không phù hợp lời nói đầu của Ông, lời nói đầu của Ông không phù hợp lời nói cuối của Ông.
Na kho te sandhiyati purimena vā pacchimaṃ, pacchimena vā purimaṃ.
Này Aggivessana, Ông nghĩ thế nào?
Taṃ kiṃ maññasi, aggivessana,
Sắc là thường hay vô thường?”
rūpaṃ niccaṃ vā aniccaṃ vā”ti?
“Vô thường, Tôn giả Gotama.”
“Aniccaṃ, bho gotama”.
“Cái gì vô thường thì cái ấy là khổ hay lạc?”
“Yaṃ panāniccaṃ dukkhaṃ vā taṃ sukhaṃ vā”ti?
“Là khổ, Tôn giả Gotama.”
“Dukkhaṃ, bho gotama”.
Cái gì vô thường, khổ, biến hoại; có hợp lý chăng khi chánh quán cái ấy là:
“Yaṃ panāniccaṃ dukkhaṃ vipariṇāmadhammaṃ, kallaṃ nu taṃ samanupassituṃ:
“Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi”?
‘etaṃ mama, esohamasmi, eso me attā’”ti?
“Thưa không, Tôn giả Gotama.”
“No hidaṃ, bho gotama”.
“Này Aggivessana, Ông nghĩ thế nào?
“Taṃ kiṃ maññasi, aggivessana,
Thọ… (như trên)…
vedanā ...pe...
tưởng… (như trên)…
saññā ...pe...
các hành… (như trên)…
saṅkhārā ...pe...
Này Aggivessana, Ông nghĩ thế nào? Thức là thường hay vô thường?”
taṃ kiṃ maññasi, aggivessana, viññāṇaṃ niccaṃ vā aniccaṃ vā”ti?
“Vô thường, Tôn giả Gotama.”
“Aniccaṃ, bho gotama”.
“Cái gì vô thường là khổ hay lạc?”
“Yaṃ panāniccaṃ dukkhaṃ vā taṃ sukhaṃ vā”ti?
“Là khổ, Tôn giả Gotama.”
“Dukkhaṃ, bho gotama”.
“Cái gì vô thường, khổ, biến hoại; có hợp lý chăng khi chánh quán cái ấy là:
“Yaṃ panāniccaṃ dukkhaṃ vipariṇāmadhammaṃ, kallaṃ nu taṃ samanupassituṃ:
“Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi”?
‘etaṃ mama, esohamasmi, eso me attā’”ti?
“Thưa không, Tôn giả Gotama.”
“No hidaṃ, bho gotama”.
“Này Aggivessana, Ông nghĩ thế nào?
“Taṃ kiṃ maññasi, aggivessana,
Ai ái luyến khổ, chấp trước khổ, tham đắm khổ, quán khổ và nói: “Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi”. Người ấy có thể liễu tri cái khổ của tự mình hay có thể sống trừ diệt khổ không?
yo nu kho dukkhaṃ allīno dukkhaṃ upagato dukkhaṃ ajjhosito, dukkhaṃ ‘etaṃ mama, esohamasmi, eso me attā’ti samanupassati, api nu kho so sāmaṃ vā dukkhaṃ parijāneyya, dukkhaṃ vā parikkhepetvā vihareyyā”ti?
“Làm sao có thể được, Tôn giả Gotama?
“Kiñhi siyā, bho gotama?
Không thể như vậy, Tôn giả Gotama.”
No hidaṃ, bho gotamā”ti.
“ Này Aggivessana, Ông nghĩ thế nào?
“Taṃ kiṃ maññasi, aggivessana,
Như vậy, chẳng phải ông đang ái luyến khổ, chấp trước khổ, tham đắm khổ, quán khổ và nói: “Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi”?
nanu tvaṃ evaṃ sante dukkhaṃ allīno dukkhaṃ upagato dukkhaṃ ajjhosito, dukkhaṃ: ‘etaṃ mama, esohamasmi, eso me attā’ti samanupassasī”ti?
“Không thể như vậy, Tôn giả Gotama.”
“Kiñhi no siyā, bho gotama? Evametaṃ, bho gotamā”ti.
“Này Aggivessana, như một người muốn được lõi cây, tìm cầu lõi cây, đi chỗ này chỗ kia tìm kiếm lõi cây. Người ấy cầm một cái búa sắc bén, đi vào rừng.
“Seyyathāpi, aggivessana, puriso sāratthiko sāragavesī sārapariyesanaṃ caramāno tiṇhaṃ kuṭhāriṃ ādāya vanaṃ paviseyya.
Người ấy có thể thấy ở đây thân một cây chuối lớn thẳng đứng, còn trẻ, không có khúc đốt.
So tattha passeyya mahantaṃ kadalikkhandhaṃ ujuṃ navaṃ akukkukajātaṃ.
Sau khi chặt ngọn cây, người ấy có thể lột ra các lá cuộn tròn. Nhưng khi lột ra các lá cuộn tròn, người ấy không tìm được giác cây, còn nói gì đến lõi cây.
Tamenaṃ mūle chindeyya, mūle chetvā agge chindeyya, agge chetvā pattavaṭṭiṃ vinibbhujeyya. So tattha pattavaṭṭiṃ vinibbhujanto pheggumpi nādhigaccheyya, kuto sāraṃ?
Cũng vậy này Aggivessana, khi được Ta hỏi, Ta cật vấn, Ta chất vấn về những lời của Ông, Ông đã tự tỏ ra trống rỗng, trống không, thất bại.
Evameva kho tvaṃ, aggivessana, mayā sakasmiṃ vāde samanuyuñjiyamāno samanugāhiyamāno samanubhāsiyamāno ritto tuccho aparaddho.
Nhưng này Aggivessana, những lời nói mà Ông tuyên bố cho hội chúng ở Vesālī:
Bhāsitā kho pana te esā, aggivessana, vesāliyaṃ parisati vācā:
“Ta không thấy một Sa-môn hay Bà-la-môn nào, là vị Hội chủ, là vị Giáo trưởng, vị Sư trưởng Giáo hội, dầu có tự cho là bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, khi đối thoại với Ta, không ai là không run sợ, không hoảng sợ, không khiếp sợ, không ai là không bị toát mồ hôi nách.
‘nāhaṃ taṃ passāmi samaṇaṃ vā brāhmaṇaṃ vā, saṅghiṃ gaṇiṃ gaṇācariyaṃ, api arahantaṃ sammāsambuddhaṃ paṭijānamānaṃ, yo mayā vādena vādaṃ samāraddho na saṅkampeyya na sampakampeyya na sampavedheyya, yassa na kacchehi sedā mucceyyuṃ.
Dầu Ta có đối thoại với một cột trụ vô tình, cột trụ ấy khi đối thoại với ta cũng run sợ, cũng hoảng sợ, cũng khiếp sợ,
Thūṇaṃ cepāhaṃ acetanaṃ vādena vādaṃ samārabheyyaṃ sāpi mayā vādena vādaṃ samāraddhā saṅkampeyya sampakampeyya sampavedheyya.
huống nữa là một người thường”?
Ko pana vādo manussabhūtassā’ti?
Nhưng chính từ nơi trán của Ông, này một người thường. Nhưng chính từ nơi trán của ông, này Aggivessana, những giọt mồ hôi đang chảy xuống, sau khi thấm qua thượng y, đang rơi xuống đất.
Tuyhaṃ kho pana, aggivessana, appekaccāni sedaphusitāni nalāṭā muttāni, uttarāsaṅgaṃ vinibhinditvā bhūmiyaṃ patiṭṭhitāni.
Còn Ta, này Aggivessana, nay không có mồ hôi nào trên thân Ta.”
Mayhaṃ kho pana, aggivessana, natthi etarahi kāyasmiṃ sedo”ti.
Rồi Thế Tôn để lộ kim thân cho Hội chúng ấy thấy.
Iti bhagavā tasmiṃ parisati suvaṇṇavaṇṇaṃ kāyaṃ vivari.
Khi nghe nói vậy, Saccaka con của Nigaṇṭha im lặng, hổ thẹn, thụt vai, cúi đầu, ngồi bàng hoàng, không nói một lời.
Evaṃ vutte, saccako nigaṇṭhaputto tuṇhībhūto maṅkubhūto pattakkhandho adhomukho pajjhāyanto appaṭibhāno nisīdi.
Rồi Dummukha, một người con Licchavī, biết được Saccaka con của Nigaṇṭha im lặng, hổ thẹn, thụt vai, cúi đầu, ngồi bàng hoàng, không nói một lời, liền bạch Thế Tôn:
Atha kho dummukho Licchavīputto saccakaṃ nigaṇṭhaputtaṃ tuṇhībhūtaṃ maṅkubhūtaṃ pattakkhandhaṃ adhomukhaṃ pajjhāyantaṃ appaṭibhānaṃ viditvā bhagavantaṃ etadavoca:
“Bạch Thế Tôn, con có một ví dụ.”
“upamā maṃ, bhagavā, paṭibhātī”ti.
Thế Tôn nói: “Này Dummukha, hãy nói lên ví dụ ấy.”
“Paṭibhātu taṃ, dummukhā”ti bhagavā avoca.
“Bạch Thế Tôn, như một hồ sen không xa làng hay thị trấn bao nhiêu,
“Seyyathāpi, bhante, gāmassa vā nigamassa vā avidūre pokkharaṇī.
ở đây có con cua.
Tatrāssa kakkaṭako.
Bạch Thế Tôn, rồi một số đông con trai hay con gái đi ra khỏi làng hay thị trấn ấy, đến tại hồ sen kia, sau khi đến, lặn xuống hồ nước ấy bắt con cua lên và đặt nó trên đất khô.
Atha kho, bhante, sambahulā kumārakā vā kumārikā vā tamhā gāmā vā nigamā vā nikkhamitvā yena sā pokkharaṇī tenupasaṅkameyyuṃ; upasaṅkamitvā taṃ pokkharaṇiṃ ogāhetvā taṃ kakkaṭakaṃ udakā uddharitvā thale patiṭṭhāpeyyuṃ.
Bạch Thế Tôn, khi con cua này thò ra cái càng nào, thì các đứa con trai hay con gái ấy, với cái gậy hay miếng sành, chặt, bẻ gãy và đập nát cái càng ấy.
Yaññadeva hi so, bhante, kakkaṭako aḷaṃ abhininnāmeyya taṃ tadeva te kumārakā vā kumārikā vā kaṭṭhena vā kathalena vā sañchindeyyuṃ sambhañjeyyuṃ sampalibhañjeyyuṃ.
Như vậy, bạch Thế Tôn, con cua ấy bị chặt, bị bẻ gãy, bị đập nát tất cả càng, không thể lội xuống hồ sen ấy như trước.
Evañhi so, bhante, kakkaṭako sabbehi aḷehi sañchinnehi sambhaggehi sampalibhaggehi abhabbo taṃ pokkharaṇiṃ puna otarituṃ, seyyathāpi pubbe.
Cũng vậy, bạch Thế Tôn, mọi khúc thuyết, gian kế, tranh luận của Saccaka con của Nigaṇṭha đã bị Thế Tôn chặt đứt, bẻ gãy, đập tan.
Evameva kho, bhante, yāni saccakassa nigaṇṭhaputtassa visūkāyitāni visevitāni vipphanditāni tānipi sabbāni bhagavatā sañchinnāni sambhaggāni sampalibhaggāni;
Và nay, bạch Thế Tôn, Saccaka con của Nigaṇṭha, không thể đến gặp Thế Tôn, chớ đừng nói là có ý định đàm luận.”
abhabbo ca dāni, bhante, saccako nigaṇṭhaputto puna bhagavantaṃ upasaṅkamituṃ yadidaṃ vādādhippāyo”ti.
Khi được nghe nói vậy, Saccaka con của Nigaṇṭha nói với Licchavī Dummukha:
Evaṃ vutte, saccako nigaṇṭhaputto dummukhaṃ Licchavīputtaṃ etadavoca:
“Ông hãy ngừng nói, Dummukha! Ông hãy ngừng nói, Dummukha! Chúng tôi không đàm luận với Ông. Chúng tôi đang đàm luận với Tôn giả Gotama.
“āgamehi tvaṃ, dummukha, āgamehi tvaṃ, dummukha, (…) na mayaṃ tayā saddhiṃ mantema, idha mayaṃ bhotā gotamena saddhiṃ mantema.
Tôn giả Gotama, hãy để yên những lời nói của chúng tôi và lời nói của các Sa-môn, Bà-la-môn khác.
Tiṭṭhatesā, bho gotama, amhākañceva aññesañca puthusamaṇabrāhmaṇānaṃ vācā.
Tôi nghĩ cuộc đàm luận vô bổ này thật đáng hối tiếc!
Vilāpaṃ vilapitaṃ maññe.
Cho đến mức độ nào, một đệ tử Thanh văn của Tôn giả Gotama trở thành tuân phụng giáo điển, chấp nhận giảng huấn, nghi ngờ được đoạn trừ, do dự được diệt tận, thành tựu vô úy, sống trong giáo hội Bổn Sư, khỏi phải nương tựa vào ai?”
Kittāvatā ca nu kho bhoto gotamassa sāvako sāsanakaro hoti ovādapatikaro tiṇṇavicikiccho vigatakathaṅkatho vesārajjappatto aparappaccayo satthusāsane viharatī”ti?
“Ở đây, này Aggivessana, đệ tử Thanh văn của Ta, đối với mọi sắc pháp, quá khứ, tương lai, hiện tại, nội hay ngoại, thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần, thấy như thật với chánh trí tuệ là: “Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi”.
“Idha, aggivessana, mama sāvako yaṃ kiñci rūpaṃ atītānāgatapaccuppannaṃ ajjhattaṃ vā bahiddhā vā oḷārikaṃ vā sukhumaṃ vā hīnaṃ vā paṇītaṃ vā yaṃ dūre santike vā, sabbaṃ rūpaṃ ‘netaṃ mama, nesohamasmi, na meso attā’ti evametaṃ yathābhūtaṃ sammappaññāya passati;
Ðối với mọi cảm thọ…
yā kāci vedanā ...pe...
đối với mọi tưởng…
yā kāci saññā ...pe...
đối với mọi hành…
ye keci saṅkhārā ...pe...
đối với mọi thức, quá khứ, tương lai, hiện tại, nội hay ngoại, thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần, thấy như thật với chánh trí tuệ là: “Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi”.
yaṃ kiñci viññāṇaṃ atītānāgatapaccuppannaṃ ajjhattaṃ vā bahiddhā vā oḷārikaṃ vā sukhumaṃ vā hīnaṃ vā paṇītaṃ vā, yaṃ dūre santike vā, sabbaṃ viññāṇaṃ ‘netaṃ mama, nesohamasmi, na meso attā’ti evametaṃ yathābhūtaṃ sammappaññāya passati.
Cho đến mức độ như vậy, này Aggivessana, một đệ tử Thanh văn của Ta trở thành tuân phụng giáo điển, chấp nhận giảng huấn, nghi ngờ được đoạn trừ, do dự được diệt tân, thành tựu vô úy, sống trong giáo hội Bổn sư, khỏi phải nương tựa một ai.
Ettāvatā kho, aggivessana, mama sāvako sāsanakaro hoti ovādapatikaro tiṇṇavicikiccho vigatakathaṅkatho vesārajjappatto aparappaccayo satthusāsane viharatī”ti.
“Cho đến mức độ nào, này Tôn giả Gotama, Tỷ-kheo là bậc A-la-hán, các lậu hoặc đã tận, tu hành thành mãn, các việc nên làm đã làm, đã đặt gánh nặng xuống, các mục tiêu đã đạt, hữu kiết sử đã đoạn trừ, được chánh trí giải thoát?”
“Kittāvatā pana, bho gotama, bhikkhu arahaṃ hoti khīṇāsavo vusitavā katakaraṇīyo ohitabhāro anuppattasadattho parikkhīṇabhavasaṃyojano sammadaññāvimutto”ti?
“Ở đây, này Aggivessana, Tỷ-kheo đối với bất cứ sắc pháp nào, quá khứ, tương lai, hiện tại, nội hay ngoại, thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần, tất cả các sắc pháp, sau khi như thật quán sát với chánh trí tuệ: “Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi”, chứng được vô chấp thủ giải thoát.
“Idha, aggivessana, bhikkhu yaṃ kiñci rūpaṃ atītānāgatapaccuppannaṃ ajjhattaṃ vā bahiddhā vā oḷārikaṃ vā sukhumaṃ vā hīnaṃ vā paṇītaṃ vā yaṃ dūre santike vā sabbaṃ rūpaṃ ‘netaṃ mama, nesohamasmi, na meso attā’ti evametaṃ yathābhūtaṃ sammappaññāya disvā anupādā vimutto hoti;
Ðối với bất cứ thọ nào…
yā kāci vedanā ...pe...
bất cứ tưởng nào…
yā kāci saññā ...pe...
bất cứ hành nào…
ye keci saṅkhārā ...pe...
đối với bất cứ thức nào, quá khứ, tương lai, hiện tại, nội hay ngoại, thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần, tất cả các thức, sau khi như thật quán sát với chánh trí tuệ: “Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi”, chứng được vô chấp thủ giải thoát.
yaṃ kiñci viññāṇaṃ atītānāgatapaccuppannaṃ ajjhattaṃ vā bahiddhā vā oḷārikaṃ vā sukhumaṃ vā hīnaṃ vā paṇītaṃ vā yaṃ dūre santike vā sabbaṃ viññāṇaṃ ‘netaṃ mama, nesohamasmi, na meso attā’ti evametaṃ yathābhūtaṃ sammappaññāya disvā anupādā vimutto hoti.
Cho đến mức độ này, này Aggivessana, Tỷ-kheo là bậc A-la-hán, các lậu hoặc đã tận, tu hành thành mãn, các việc nên làm đã làm, đã đặt gánh nặng xuống, các mục tiêu đã đạt, hữu kiết sử đã đoạn trừ, được chánh trí giải thoát.
Ettāvatā kho, aggivessana, bhikkhu arahaṃ hoti khīṇāsavo vusitavā katakaraṇīyo ohitabhāro anuppattasadattho parikkhīṇabhavasaṃyojano sammadaññāvimutto.
Với tâm giải thoát như vậy, này Aggivessana, Tỷ-kheo thành tựu ba pháp vô thượng:
Evaṃ vimuttacitto kho, aggivessana, bhikkhu tīhi anuttariyehi samannāgato hoti—
Kiến vô thượng, Ðạo vô thượng, Giải thoát vô thượng.
dassanānuttariyena, paṭipadānuttariyena, vimuttānuttariyena.
Ðược giải thoát như vậy, này Aggivessana, vị ấy chỉ kính lễ, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường Như Lai:
Evaṃ vimuttacitto kho, aggivessana, bhikkhu tathāgataññeva sakkaroti garuṃ karoti māneti pūjeti—
“Thế Tôn đã giác ngộ, Ngài thuyết pháp để giác ngộ. Thế Tôn đã điều phục, Ngài thuyết pháp để điều phục. Thế Tôn đã tịch tĩnh, Ngài thuyết pháp để tịch tĩnh. Thế Tôn đã vượt qua, Ngài thuyết pháp để vượt qua. Thế Tôn đã chứng Niết-bàn, Ngài thuyết pháp để chứng Niết-bàn”.
buddho so bhagavā bodhāya dhammaṃ deseti, danto so bhagavā damathāya dhammaṃ deseti, santo so bhagavā samathāya dhammaṃ deseti, tiṇṇo so bhagavā taraṇāya dhammaṃ deseti, parinibbuto so bhagavā parinibbānāya dhammaṃ desetī”ti.
Ðược nghe nói vậy, Saccaka con của Nigaṇṭha bạch với Thế Tôn:
Evaṃ vutte, saccako nigaṇṭhaputto bhagavantaṃ etadavoca:
“Tôn giả Gotama, chúng tôi thật là lỗ mãng, chúng tôi thật là khinh suất. Chúng tôi đã dám nghĩ dùng lời nói để luận chiến với Tôn giả Gotama!
“mayameva, bho gotama, dhaṃsī, mayaṃ pagabbā, ye mayaṃ bhavantaṃ gotamaṃ vādena vādaṃ āsādetabbaṃ amaññimha.
Này Tôn giả Gotama, rất có thể còn có sự an toàn cho một người chiến đấu với con voi điên, nhưng không thể có sự an toàn cho một người chiến đấu chống Tôn giả Gotama!
Siyā hi, bho gotama, hatthiṃ pabhinnaṃ āsajja purisassa sotthibhāvo, na tveva bhavantaṃ gotamaṃ āsajja siyā purisassa sotthibhāvo.
Này Tôn giả Gotama, rất có thể còn có sự an toàn cho một người chiến đấu chống đám lửa hừng, nhưng không thể có sự an toàn cho một người chiến đấu chống Tôn giả Gotama!
Siyā hi, bho gotama, pajjalitaṃ aggikkhandhaṃ āsajja purisassa sotthibhāvo, na tveva bhavantaṃ gotamaṃ āsajja siyā purisassa sotthibhāvo.
Này Tôn giả Gotama, rất có thể còn có sự an toàn cho một người chiến đấu với con rắn độc dữ tợn, nhưng không thể có sự an toàn cho một người chiến đấu với Tôn giả Gotama!
Siyā hi, bho gotama, āsīvisaṃ ghoravisaṃ āsajja purisassa sotthibhāvo, na tveva bhavantaṃ gotamaṃ āsajja siyā purisassa sotthibhāvo.
Tôn giả Gotama, chúng tôi thật lỗ mãng, chúng tôi thật là khinh xuất. Chúng tôi đã dám nghĩ, dùng lời nói để luận chiến với Tôn giả Gotama!
Mayameva, bho gotama, dhaṃsī, mayaṃ pagabbā, ye mayaṃ bhavantaṃ gotamaṃ vādena vādaṃ āsādetabbaṃ amaññimha.
Mong Tôn giả Gotama nhận lời, ngày mai dùng bữa ăn của tôi cùng với chúng Tỷ-kheo!”
Adhivāsetu me bhavaṃ gotamo svātanāya bhattaṃ saddhiṃ bhikkhusaṅghenā”ti.
Thế Tôn im lặng nhận lời.
Adhivāsesi bhagavā tuṇhībhāvena.
Rồi Saccaka con của Nigaṇṭha, sau khi biết Thế Tôn đã nhận lời, liền nói với các Licchavī:
Atha kho saccako nigaṇṭhaputto bhagavato adhivāsanaṃ viditvā te licchavī āmantesi:
“Các Tôn giả Licchavī hãy nghe tôi. Sa-môn Gotama ngày mai được mời ăn với chúng Tỷ-kheo.
“suṇantu me bhonto licchavī, samaṇo me gotamo nimantito svātanāya saddhiṃ bhikkhusaṅghena.
Hãy đem đến cho tôi những gì quý vị nghĩ là hợp thời.”
Tena me abhihareyyātha yamassa patirūpaṃ maññeyyāthā”ti.
Rồi những Licchavī ấy, sau khi đêm ấy đã mãn cho đem đến Saccaka con của Nigaṇṭha khoảng năm trăm phần cơm cúng dường nấu với sữa.
Atha kho te licchavī tassā rattiyā accayena saccakassa nigaṇṭhaputtassa pañcamattāni thālipākasatāni bhattābhihāraṃ abhihariṃsu.
Rồi Saccaka con của Nigaṇṭha, tại vườn của mình, cho soạn các món ăn thịnh soạn, loại cứng và loại mềm, rồi cho báo tin giờ cho Thế Tôn:
Atha kho nigaṇṭhaputto sake ārāme paṇītaṃ khādanīyaṃ bhojanīyaṃ paṭiyādāpetvā bhagavato kālaṃ ārocāpesi:
“Tôn giả Gotama, nay đã đến giờ. Cơm đã sửa soạn xong.”
“kālo, bho gotama, niṭṭhitaṃ bhattan”ti.
Rồi Thế Tôn vào buổi sáng đắp y, cầm y bát, đi đến khu vườn của Saccaka con của Nigaṇṭha, sau khi đến, Ngài ngồi trên chỗ đã soạn sẵn cùng với chúng Tỷ-kheo.
Atha kho bhagavā pubbaṇhasamayaṃ nivāsetvā pattacīvaramādāya yena saccakassa nigaṇṭhaputtassa ārāmo tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā paññatte āsane nisīdi saddhiṃ bhikkhusaṅghena.
Rồi Saccaka con của Nigaṇṭha, tự tay hầu hạ các món ăn thịnh soạn loại cứng và loại mềm cho chúng Tỷ-kheo, cầm đầu là đức Phật.
Atha kho saccako nigaṇṭhaputto buddhappamukhaṃ bhikkhusaṅghaṃ paṇītena khādanīyena bhojanīyena sahatthā santappesi sampavāresi.
Rồi Niganthaputta sau khi biết Thế Tôn dùng bữa ăn đã xong, tay đã rời khỏi bát, liền lấy một chiếc ghế thấp khác và ngồi xuống một bên.
Atha kho saccako nigaṇṭhaputto bhagavantaṃ bhuttāviṃ onītapattapāṇiṃ aññataraṃ nīcaṃ āsanaṃ gahetvā ekamantaṃ nisīdi.
Sau khi ngồi xuống một bên, Saccaka con của Nigaṇṭha bạch Thế Tôn:
Ekamantaṃ nisinno kho saccako nigaṇṭhaputto bhagavantaṃ etadavoca:
“Này Tôn giả Gotama, trong cuộc bố thí này, nếu có công đức và công đức địa, mong rằng những vị bố thí sẽ được hưởng hạnh phúc.”
“yamidaṃ, bho gotama, dāne puññañca puññamahī ca taṃ dāyakānaṃ sukhāya hotū”ti.
“Này Aggivessana, sẽ có (công đức) cho những người bố thí, đối với người đáng được cúng dường như Ông, dầu Ông không phải là không có tham, không phải là không có sân, không phải là không có si;
“Yaṃ kho, aggivessana, tādisaṃ dakkhiṇeyyaṃ āgamma avītarāgaṃ avītadosaṃ avītamohaṃ, taṃ dāyakānaṃ bhavissati.
sẽ có (công đức) cho Ông, này Aggivessana, đối với người đáng được cúng dường như Ta, và Ta là người không có tham, không có sân, không có si.”
Yaṃ kho, aggivessana, mādisaṃ dakkhiṇeyyaṃ āgamma vītarāgaṃ vītadosaṃ vītamohaṃ, taṃ tuyhaṃ bhavissatī”ti.
Cūḷasaccakasuttaṃ niṭṭhitaṃ pañcamaṃ.
Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt