Sáng/Tối
🔍 Việt 🔍 Pali 🔊 About

Majjhima Nikāya - Trung Bộ Kinh

Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Trung Bộ 88

Trung Bộ 88
Majjhima Nikāya 88

Kinh Bāhitika
Bāhitikasutta

Như vầy tôi nghe.
Evaṃ me sutaṃ—

Một thời Thế Tôn ở Sāvatthī, Jetavana, tại tịnh xá ông Anāthapiṇḍika (Cấp cô độc).
ekaṃ samayaṃ bhagavā sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme.

Rồi Tôn giả Ānanda vào buổi sáng đắp y, cầm y bát, đi vào Sāvatthī để khất thực.
Atha kho āyasmā ānando pubbaṇhasamayaṃ nivāsetvā pattacīvaramādāya sāvatthiyaṃ piṇḍāya pāvisi.

Ði khất thực ở Sāvatthī xong, sau bữa ăn, trên con đường khất thực trở về, Tôn giả đi đến Ðông Viên Lộc Mẫu giảng đường để nghỉ trưa.
Sāvatthiyaṃ piṇḍāya caritvā pacchābhattaṃ piṇḍapātapaṭikkanto yena pubbārāmo migāramātupāsādo tenupasaṅkami divāvihārāya.

Lúc bấy giờ, vua Pasenadi nước Kosala cưỡi trên con voi Ekapundarika và đi ra khỏi thành Sāvatthī trong buổi sáng sớm.
Tena kho pana samayena rājā pasenadi kosalo ekapuṇḍarīkaṃ nāgaṃ abhiruhitvā sāvatthiyā niyyāti divā divassa.

Vua Pasenadi nước Kosala thấy Tôn giả Ānanda từ xa đi đến.
Addasā kho rājā pasenadi kosalo āyasmantaṃ ānandaṃ dūratova āgacchantaṃ.

Thấy vậy liền nói với vị đại thần Sirivaḍḍha:
Disvāna sirivaḍḍhaṃ mahāmattaṃ āmantesi:

“Vị Tôn giả ấy, này Sirivaḍḍha, có phải là Ānanda không?”
“āyasmā no eso, samma sirivaḍḍha, ānando”ti.

“Thưa phải, tâu Ðại vương, Tôn giả ấy là Ānanda.”
“Evaṃ, mahārāja, āyasmā eso ānando”ti.

Rồi vua Pasenadi nước Kosala nói với một người khác:
Atha kho rājā pasenadi kosalo aññataraṃ purisaṃ āmantesi:

“Này Người kia, hãy đi đến Tôn giả Ānanda, sau khi đến, nhân danh ta cúi đầu đảnh lễ chân Tôn giả Ānanda, rồi thưa như sau:
“ehi tvaṃ, ambho purisa, yenāyasmā ānando tenupasaṅkama; upasaṅkamitvā mama vacanena āyasmato ānandassa pāde sirasā vandāhi:

‘Thưa Tôn giả, vua Pasenadi nước Kosala cúi đầu đảnh lễ chân Tôn giả Ānanda,
‘rājā, bhante, pasenadi kosalo āyasmato ānandassa pāde sirasā vandatī’ti;

và thưa như sau:
evañca vadehi:

‘Thưa Tôn giả, nếu Tôn giả Ānanda không có công việc gì phải làm gấp, thưa Tôn giả, mong Tôn giả hãy vì lòng từ chờ đợi một lát’”.
‘sace kira, bhante, āyasmato ānandassa na kiñci accāyikaṃ karaṇīyaṃ, āgametu kira, bhante, āyasmā ānando muhuttaṃ anukampaṃ upādāyā’”ti.

“Thưa vâng, tâu Ðại vương.” Người ấy vâng đáp vua Pasenadi xứ Kosala, đi đến Tôn giả Ānanda, sau khi đến, đảnh lễ Tôn giả Ānanda rồi đứng một bên. Ðứng một bên, người ấy thưa với Tôn giả Ānanda:
“Evaṃ, devā”ti kho so puriso rañño pasenadissa kosalassa paṭissutvā yenāyasmā ānando tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā āyasmantaṃ ānandaṃ abhivādetvā ekamantaṃ aṭṭhāsi. Ekamantaṃ ṭhito kho so puriso āyasmantaṃ ānandaṃ etadavoca:

“Thưa Tôn giả, vua Pasenadi nước Kosala cúi đầu đảnh lễ chân Tôn giả Ānanda, và thưa như sau:
“rājā, bhante, pasenadi kosalo āyasmato ānandassa pāde sirasā vandati; evañca vadeti:

‘Thưa Tôn giả, nếu Tôn giả Ānanda không có công việc gì phải làm gấp, thưa Tôn giả, mong Tôn giả hãy vì lòng từ chờ đợi một lát’”.
‘sace kira, bhante, āyasmato ānandassa na kiñci accāyikaṃ karaṇīyaṃ, āgametu kira, bhante, āyasmā ānando muhuttaṃ anukampaṃ upādāyā’”ti.

Tôn giả Ānanda im lặng nhận lời.
Adhivāsesi kho āyasmā ānando tuṇhībhāvena.

Rồi vua Pasenadi nước Kosala, cưỡi voi cho đến chỗ nào có thể đi voi được, rồi xuống voi đi bộ đến chỗ Tôn giả Ānanda, sau khi đến, đảnh lễ Tôn giả Ānanda rồi đứng một bên. Ðứng một bên, vua Pasenadi nước Kosala thưa với Tôn giả Ānanda:
Atha kho rājā pasenadi kosalo yāvatikā nāgassa bhūmi nāgena gantvā nāgā paccorohitvā pattikova yenāyasmā ānando tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā āyasmantaṃ ānandaṃ abhivādetvā ekamantaṃ aṭṭhāsi. Ekamantaṃ ṭhito kho rājā pasenadi kosalo āyasmantaṃ ānandaṃ etadavoca:

“Thưa Tôn giả, nếu Tôn giả Ānanda không có công việc gì phải làm gấp, thưa Tôn giả, mong Tôn giả hãy vì lòng từ chờ đợi một lát ở bờ sông Aciravatī”.
“sace, bhante, āyasmato ānandassa na kiñci accāyikaṃ karaṇīyaṃ, sādhu, bhante, āyasmā ānando yena Aciravatīyā nadiyā tīraṃ tenupasaṅkamatu anukampaṃ upādāyā”ti.

Tôn giả Ānanda im lặng nhận lời.
Adhivāsesi kho āyasmā ānando tuṇhībhāvena.

Rồi Tôn giả Ānanda đi đến bờ sông Aciravatī, sau khi đến, liền ngồi xuống trên chỗ đã đoạn sẵn, dưới một gốc cây.
Atha kho āyasmā ānando yena Aciravatīyā nadiyā tīraṃ tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā aññatarasmiṃ rukkhamūle paññatte āsane nisīdi.

Rồi vua Pasenadi nước Kosala, cưỡi voi cho đến chỗ nào có thể đi voi được, rồi xuống voi đi bộ đến chỗ Tôn giả Ānanda, sau khi đến, đảnh lễ Tôn giả Ānanda rồi đứng một bên.
Atha kho rājā pasenadi kosalo yāvatikā nāgassa bhūmi nāgena gantvā nāgā paccorohitvā pattikova yenāyasmā ānando tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā āyasmantaṃ ānandaṃ abhivādetvā ekamantaṃ aṭṭhāsi.

Ðứng một bên, vua Pasenadi nước Kosala thưa với Tôn giả Ānanda:
Ekamantaṃ ṭhito kho rājā pasenadi kosalo āyasmantaṃ ānandaṃ etadavoca:

“Thưa Tôn giả, ở đây, mong Tôn giả Ānanda ngồi trên thảm voi.”
“idha, bhante, āyasmā ānando hatthatthare nisīdatū”ti.

“Thôi vừa rồi, Ðại vương. Ðại vương hãy ngồi.
“Alaṃ, mahārāja. Nisīda tvaṃ;

Tôi đã ngồi trên chỗ ngồi của tôi.”
nisinno ahaṃ sake āsane”ti.

Vua Pasenadi nước Kosala ngồi trên chỗ đã soạn sẵn.
Nisīdi kho rājā pasenadi kosalo paññatte āsane.

Sau khi ngồi, vua Pasenadi nước Kosala thưa với Tôn giả Ānanda:
Nisajja kho rājā pasenadi kosalo āyasmantaṃ ānandaṃ etadavoca:

“Thưa Tôn giả Ānanda, có phải Thế Tôn không làm các thân hành mà các bậc Sa-môn, Bà-la-môn có trí quở trách?”
“kiṃ nu kho, bhante ānanda, so bhagavā tathārūpaṃ kāyasamācāraṃ samācareyya, yvāssa kāyasamācāro opārambho samaṇehi brāhmaṇehī”ti?

“Thưa Ðại vương, Thế Tôn không làm các thân hành mà các bậc Sa-môn, Bà-la-môn có trí quở trách.”
“Na kho, mahārāja, so bhagavā tathārūpaṃ kāyasamācāraṃ samācareyya, yvāssa kāyasamācāro opārambho samaṇehi brāhmaṇehi viññūhī”ti.

“Thưa Tôn giả Ānanda, có phải Thế Tôn không làm các khẩu hành … không làm các ý hành mà các bậc Sa-môn, Bà-la-môn có trí quở trách?”
“Kiṃ pana, bhante ānanda, so bhagavā tathārūpaṃ vacīsamācāraṃ ...pe... manosamācāraṃ samācareyya, yvāssa manosamācāro opārambho samaṇehi brāhmaṇehī”ti?

“Thưa Ðại vương, Thế Tôn không làm các khẩu hành, ý hành mà các bậc Sa-môn, Bà-la-môn có trí quở trách.”
“Na kho, mahārāja, so bhagavā tathārūpaṃ manosamācāraṃ samācareyya, yvāssa manosamācāro opārambho samaṇehi brāhmaṇehi viññūhī”ti.

“Thật vi diệu thay, thưa Tôn giả! Thật hy hữu thay, thưa Tôn giả!
“Acchariyaṃ, bhante, abbhutaṃ, bhante.

Thưa Tôn giả, điều mà tôi không thể nói lên một cách đầy đủ trong một câu hỏi, đã được Tôn giả Ānanda nói lên một cách đầy đủ trong câu trả lời câu hỏi.
Yañhi mayaṃ, bhante, nāsakkhimhā pañhena paripūretuṃ taṃ, bhante, āyasmatā ānandena pañhassa veyyākaraṇena paripūritaṃ.

Thưa Tôn giả, khi người ngu si, thiếu kinh nghiệm tán thán hay hủy báng những người khác, mà không chứng nghiệm và suy xét, thì chúng tôi không y cứ vào đấy và xem như là lõi cây.
Ye te, bhante, bālā abyattā ananuvicca apariyogāhetvā paresaṃ vaṇṇaṃ vā avaṇṇaṃ vā bhāsanti, na mayaṃ taṃ sārato paccāgacchāma;

Nhưng thưa Tôn giả, khi người có trí, có kinh nghiệm tán thán hay hủy báng những người khác, có chứng nghiệm và suy xét, thì chúng tôi y cứ vào đấy và xem như là lõi cây.
ye pana te, bhante, paṇḍitā viyattā medhāvino anuvicca pariyogāhetvā paresaṃ vaṇṇaṃ vā avaṇṇaṃ vā bhāsanti, mayaṃ taṃ sārato paccāgacchāma.

Nhưng thưa Tôn giả Ānanda, thế nào là thân hành mà các vị Sa-môn, Bà-la-môn có trí quở trách?”
Katamo pana, bhante ānanda, kāyasamācāro opārambho samaṇehi brāhmaṇehi viññūhī”ti?

“Thưa Ðại vương, bất cứ thân hành gì bất thiện.”
“Yo kho, mahārāja, kāyasamācāro akusalo”.

“Thưa Tôn giả, thế nào là thân hành bất thiện?”
“Katamo pana, bhante, kāyasamācāro akusalo”?

“Thưa Ðại vương, bất cứ thân hành gì có tội.”
“Yo kho, mahārāja, kāyasamācāro sāvajjo”.

“Thưa Tôn giả, thế nào là thân hành có tội?”
“Katamo pana, bhante, kāyasamācāro sāvajjo”?

“Thưa Ðại vương, bất cứ thân hành gì có hại.”
“Yo kho, mahārāja, kāyasamācāro sabyābajjho”.

“Thưa Tôn giả, thế nào là thân hành có hại?”
“Katamo pana, bhante, kāyasamācāro sabyābajjho”?

“Thưa Ðại vương, bất cứ thân hành nào có khổ báo.”
“Yo kho, mahārāja, kāyasamācāro dukkhavipāko”.

“Thưa Tôn giả, thế nào là thân hành có khổ báo?”
“Katamo pana, bhante, kāyasamācāro dukkhavipāko”?

“Thưa Ðại vương, phàm thân hành gì đưa đến tự hại, đưa đến hại người, đưa đến hại cả hai, từ nơi thân hành ấy.
“Yo kho, mahārāja, kāyasamācāro attabyābādhāyapi saṃvattati, parabyābādhāyapi saṃvattati, ubhayabyābādhāyapi saṃvattati.

Các bất thiện pháp tăng trưởng, các thiện pháp thối giảm.
Tassa akusalā dhammā abhivaḍḍhanti, kusalā dhammā parihāyanti;

Thưa Ðại vương, thân hành như vậy bị các Sa-môn, Bà-la-môn có trí quở trách.”
evarūpo kho, mahārāja, kāyasamācāro opārambho samaṇehi brāhmaṇehi viññūhī”ti.

“Thưa Tôn giả, thế nào là khẩu hành… thế nào là ý hành bị các Sa-môn, Bà-la-môn có trí quở trách?”
“Katamo pana, bhante ānanda, vacīsamācāro ...pe... manosamācāro opārambho samaṇehi brāhmaṇehi viññūhī”ti?

“Thưa Ðại vương, bất cứ ý hành gì bất thiện.”
“Yo kho, mahārāja, manosamācāro akusalo”.

“Thưa Tôn giả, thế nào là ý hành bất thiện?”
“Katamo pana, bhante, manosamācāro akusalo”?

“Thưa Ðại vương, phàm ý hành gì có tội.”
“Yo kho, mahārāja, manosamācāro sāvajjo”.

“Thưa Tôn giả, thế nào là ý hành có tội?”
“Katamo pana, bhante, manosamācāro sāvajjo”?

“Thưa Ðại vương, phàm ý hành gì có hại.”
“Yo kho, mahārāja, manosamācāro sabyābajjho”.

“Thưa Tôn giả, thế nào là ý hành có hại?”
“Katamo pana, bhante, manosamācāro sabyābajjho”?

“Thưa Ðại vương, phàm ý hành nào có khổ báo.”
“Yo kho, mahārāja, manosamācāro dukkhavipāko”.

“Thưa Tôn giả, thế nào là ý hành có khổ báo?”
“Katamo pana, bhante, manosamācāro dukkhavipāko”?

“Thưa Ðại vương, phàm ý hành gì đưa đến tự hại, đưa đến hại người, đưa đến hại cả hai, từ nơi ý hành ấy.
“Yo kho, mahārāja, manosamācāro attabyābādhāyapi saṃvattati, parabyābādhāyapi saṃvattati, ubhayabyābādhāyapi saṃvattati.

Các bất thiện pháp tăng trưởng, các thiện pháp thối giảm.
Tassa akusalā dhammā abhivaḍḍhanti, kusalā dhammā parihāyanti;

Thưa Ðại vương, ý hành như vậy bị các Sa-môn, Bà-la-môn có trí quở trách.”
evarūpo kho, mahārāja, manosamācāro opārambho samaṇehi brāhmaṇehi viññūhī”ti.

“Thưa Tôn giả Ānanda, có phải Thế Tôn tán thán sự đoạn trừ tất cả bất thiện pháp?”
“Kiṃ nu kho, bhante ānanda, so bhagavā sabbesaṃyeva akusalānaṃ dhammānaṃ pahānaṃ vaṇṇetī”ti?

“Thưa Ðại vương, Như Lai đã đoạn trừ tất cả bất thiện pháp và thành tựu các thiện pháp.”
“Sabbākusaladhammapahīno kho, mahārāja, tathāgato kusaladhammasamannāgato”ti.

“Nhưng thưa Tôn giả Ānanda, thế nào là thân hành không bị các Sa-môn, Bà-la-môn có trí quở trách?”
“Katamo pana, bhante ānanda, kāyasamācāro anopārambho samaṇehi brāhmaṇehi viññūhī”ti?

“Thưa Ðại vương, bất cứ thiện thân hành nào.”
“Yo kho, mahārāja, kāyasamācāro kusalo”.

“Thưa Tôn giả, thế nào là thiện thân hành?”
“Katamo pana, bhante, kāyasamācāro kusalo”?

“Thưa Ðại vương, phàm thân hành nào không có tội.”
“Yo kho, mahārāja, kāyasamācāro anavajjo”.

“Thưa Tôn giả, thế nào là thân hành không có tội?”
“Katamo pana, bhante, kāyasamācāro anavajjo”?

“Thưa Ðại vương, phàm thân hành nào không có hại.”
“Yo kho, mahārāja, kāyasamācāro abyābajjho”.

“Thưa Tôn giả, thế nào là thân hành không có hại?”
“Katamo pana, bhante, kāyasamācāro abyābajjho”?

“Thưa Ðại vương, phàm thân hành nào có lạc báo.”
“Yo kho, mahārāja, kāyasamācāro sukhavipāko”.

“Thưa tôn giả, thế nào là thân hành có lạc báo?”
“Katamo pana, bhante, kāyasamācāro sukhavipāko”?

“Thưa Ðại vương, phàm thân hành nào không đưa đến tự hại, không đưa đến hại người, không đưa đến hại cả hai, từ nơi thân hành ấy.
“Yo kho, mahārāja, kāyasamācāro nevattabyābādhāyapi saṃvattati, na parabyābādhāyapi saṃvattati, na ubhayabyābādhāyapi saṃvattati.

các bất thiện pháp thối giảm, các thiện pháp tăng trưởng.
Tassa akusalā dhammā parihāyanti, kusalā dhammā abhivaḍḍhanti.

Thưa Ðại vương, thân hành như vậy không bị các Sa-môn, Bà-la-môn có trí quở trách.”
Evarūpo kho, mahārāja, kāyasamācāro anopārambho samaṇehi brāhmaṇehi viññūhī”ti.

“Thưa Tôn giả Ānanda, thế nào là khẩu hành… thế nào là ý hành không bị các Sa-môn, Bà-la-môn có trí quở trách?”
“Katamo pana, bhante ānanda, vacīsamācāro ...pe... manosamācāro anopārambho samaṇehi brāhmaṇehi viññūhī”ti?

“Thưa Ðại vương, bất cứ thiện ý hành nào.”
“Yo kho, mahārāja, manosamācāro kusalo”.

“Thưa Tôn giả, thế nào là thiện ý hành?”
“Katamo pana, bhante, manosamācāro kusalo”?

“Thưa Ðại vương, phàm ý hành nào không có tội.”
“Yo kho, mahārāja, manosamācāro anavajjo”.

“Thưa Tôn giả, thế nào là ý hành không có tội?”
“Katamo pana, bhante, manosamācāro anavajjo”?

“Thưa Ðại vương, phàm ý hành nào không có hại.”
“Yo kho, mahārāja, manosamācāro abyābajjho”.

“Thưa Tôn giả, thế nào là ý hành không có hại?”
“Katamo pana, bhante, manosamācāro abyābajjho”?

“Thưa Ðại vương, phàm ý hành nào có lạc báo.”
“Yo kho, mahārāja, manosamācāro sukhavipāko”.

“Thưa Tôn giả, thế nào là ý hành có lạc báo?”
“Katamo pana, bhante, manosamācāro sukhavipāko”?

“Thưa Ðại vương, phàm ý hành nào không đưa đến tự hại, không đưa đến hại người, không đưa đến hại cả hai, từ nơi ý hành ấy,
“Yo kho, mahārāja, manosamācāro nevattabyābādhāyapi saṃvattati, na parabyābādhāyapi saṃvattati, na ubhayabyābādhāyapi saṃvattati.

các bất thiện pháp thối giảm, các thiện pháp tăng trưởng.
Tassa akusalā dhammā parihāyanti, kusalā dhammā abhivaḍḍhanti.

Thưa Ðại vương, ý hành như vậy không bị các Sa-môn, Bà-la-môn có trí quở trách.”
Evarūpo kho, mahārāja, manosamācāro anopārambho samaṇehi brāhmaṇehi viññūhī”ti.

“Thưa Tôn giả Ānanda, có phải Thế Tôn tán thán sự thành tựu tất cả thiện pháp?”
“Kiṃ pana, bhante ānanda, so bhagavā sabbesaṃyeva kusalānaṃ dhammānaṃ upasampadaṃ vaṇṇetī”ti?

“Thưa Ðại vương, Như Lai đã đoạn trừ tất cả bất thiện pháp, và thành tựu các thiện pháp.”
“Sabbākusaladhammapahīno kho, mahārāja, tathāgato kusaladhammasamannāgato”ti.

“Thật vi diệu thay, thưa Tôn giả! Thật hy hữu thay, thưa Tôn giả!
“Acchariyaṃ, bhante, abbhutaṃ, bhante.

Thật khéo nói thay việc này, thưa Tôn giả.
Yāva subhāsitañcidaṃ, bhante, āyasmatā ānandena.

Do Tôn giả Ānanda mà chúng tôi, thưa Tôn giả, được hoan hỷ và thỏa mãn với những lời khéo nói của Tôn giả Ānanda.
Iminā ca mayaṃ, bhante, āyasmato ānandassa subhāsitena attamanābhiraddhā.

Ðược hoan hỷ và thỏa mãn, thưa Tôn giả, với những lời khéo nói của Tôn giả Ānanda.
Evaṃ attamanābhiraddhā ca mayaṃ, bhante, āyasmato ānandassa subhāsitena.

chúng tôi vui lòng tặng một con voi báu cho Tôn giả Ānanda, nếu Tôn giả Ānanda được phép nhận con voi báu.
Sace, bhante, āyasmato ānandassa hatthiratanaṃ kappeyya, hatthiratanampi mayaṃ āyasmato ānandassa dadeyyāma.

Chúng tôi vui lòng tặng con ngựa báu cho Tôn giả Ānanda, nếu Tôn giả Ānanda được phép nhận con ngựa báu.
Sace, bhante, āyasmato ānandassa assaratanaṃ kappeyya, assaratanampi mayaṃ āyasmato ānandassa dadeyyāma.

Chúng tôi vui lòng tặng một làng ân tứ cho Tôn giả Ānanda, nếu Tôn giả Ānanda được phép nhận một làng ân tứ.
Sace, bhante, āyasmato ānandassa gāmavaraṃ kappeyya, gāmavarampi mayaṃ āyasmato ānandassa dadeyyāma.

Nhưng thưa Tôn giả, chúng tôi được biết như sau:
Api ca, bhante, mayampetaṃ jānāma:

‘Việc này Tôn giả Ānanda không được phép’.
‘netaṃ āyasmato ānandassa kappatī’ti.

Thưa Tôn giả, có cuộn vải ngoại hóa (ngoại nhập) này, được gắn vào trong một cán dù, do vua Ajātasattu, con bà Videhi nước Magadha gởi cho tôi, dài mười sáu khuỷu tay, rộng tám khuỷu tay.
Ayaṃ me, bhante, bāhitikā raññā māgadhena ajātasattunā vedehiputtena vatthanāḷiyā pakkhipitvā pahitā soḷasasamā āyāmena, aṭṭhasamā vitthārena.

Thưa Tôn giả, mong Tôn giả Ānanda vì lòng từ bi nạp thọ cho.”
Taṃ, bhante, āyasmā ānando paṭiggaṇhātu anukampaṃ upādāyā”ti.

“Thôi vừa rồi, Ðại vương! Tôi đã đủ ba y.”
“Alaṃ, mahārāja, paripuṇṇaṃ me ticīvaran”ti.

“Thưa Tôn giả, sau cơn mưa lớn trên sườn núi, cả Tôn giả và tôi đã thấy lúc ấy sông Aciravatī chảy mạnh, tràn qua hai bên bờ như thế nào.
“Ayaṃ, bhante, aciravatī nadī diṭṭhā āyasmatā ceva ānandena amhehi ca. Yadā uparipabbate mahāmegho abhippavuṭṭho hoti, athāyaṃ aciravatī nadī ubhato kūlāni saṃvissandantī gacchati;

Cũng vậy, thưa Tôn giả, Tôn giả Ānanda có thể làm cho mình ba y, từ nơi tấm vải ngoại hóa này.
evameva kho, bhante, āyasmā ānando imāya bāhitikāya attano ticīvaraṃ karissati.

Còn ba y cũ, Tôn giả Ānanda có thể đem phân phát cho các đồng Phạm hạnh.
Yaṃ panāyasmato ānandassa purāṇaṃ ticīvaraṃ taṃ sabrahmacārīhi saṃvibhajissati.

Như vậy sự bố thí này của chúng tôi được trôi chảy, như nước lan tràn qua bờ.
Evāyaṃ amhākaṃ dakkhiṇā saṃvissandantī maññe gamissati.

Thưa Tôn giả, mong Tôn giả nhận cho tấm vải ngoại hóa này.”
Paṭiggaṇhātu, bhante, āyasmā ānando bāhitikan”ti.

Rồi Tôn giả Ānanda nhận lấy tấm vải ngoại hóa.
Paṭiggahesi kho āyasmā ānando bāhitikaṃ.

Rồi vua Pasenadi nước Kosala thưa với Tôn giả Ānanda:
Atha kho rājā pasenadi kosalo āyasmantaṃ ānandaṃ etadavoca:

“Thưa Tôn giả Ānanda, nay chúng tôi phải đi.
“handa ca dāni mayaṃ, bhante ānanda, gacchāma;

Chúng tôi có nhiều công vụ, có nhiều trách nhiệm phải làm.”
bahukiccā mayaṃ bahukaraṇīyā”ti.

“Thưa Ðại vương, nay Ðại vương hãy làm gì Ðại vương nghĩ là hợp thời.”
“Yassadāni tvaṃ, mahārāja, kālaṃ maññasī”ti.

Rồi vua Pasenadi nước Kosala hoan hỷ, tín thọ lời Tôn giả Ānanda dạy, từ chỗ ngồi đứng dậy, thân bên hữu hướng về ngài, rồi ra đi.
Atha kho rājā pasenadi kosalo āyasmato ānandassa bhāsitaṃ abhinanditvā anumoditvā uṭṭhāyāsanā āyasmantaṃ ānandaṃ abhivādetvā padakkhiṇaṃ katvā pakkāmi.

Tôn giả Ānanda, sau khi vua Pasenadi nước Kosala ra đi không bao lâu, liền đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên.
Atha kho āyasmā ānando acirapakkantassa rañño pasenadissa kosalassa yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi.

Ngồi xuống một bên, Tôn giả Ānanda tường thuật lên Thế Tôn tất cả cuộc đàm thoại với vua Pasenadi nước Kosala rồi dâng tấm vải ngoại hóa lên Thế Tôn.
Ekamantaṃ nisinno kho āyasmā ānando yāvatako ahosi raññā pasenadinā kosalena saddhiṃ kathāsallāpo taṃ sabbaṃ bhagavato ārocesi. Tañca bāhitikaṃ bhagavato pādāsi.

Thế Tôn nói với các Tỷ-kheo:
Atha kho bhagavā bhikkhū āmantesi:

“Thật hạnh phúc thay cho vua Pasenadi nước Kosala! Thật tốt đẹp thay cho vua Pasenadi nước Kosala!
“lābhā, bhikkhave, rañño pasenadissa kosalassa, suladdhalābhā, bhikkhave, rañño pasenadissa kosalassa;

Vua đã được yết kiến Tôn giả Ānanda và được cúng dường.”
yaṃ rājā pasenadi kosalo labhati ānandaṃ dassanāya, labhati payirupāsanāyā”ti.

Thế Tôn thuyết giảng như vậy.
Idamavoca bhagavā.

Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy.
Attamanā te bhikkhū bhagavato bhāsitaṃ abhinandunti.

Bāhitikasuttaṃ niṭṭhitaṃ aṭṭhamaṃ.


Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt